Sài gòn xưa là Sài gòn trước 75 quay ngược lại năm 54, không phải trong
thập niên 30 hay 40. Tân Nhạc manh nha ở Sài gòn nhưng lại hình thành và phát
triển mạnh hơn ở phía Bắc. Sau hiệp định Geneve 54, Sài gòn mới có Tân nhạc như
là một trung tâm ca nhạc muôn mặt với một đội ngũ nhạc sĩ đa dạng, tạo nên trào
lưu âm nhạc mới gọi là : nhạc Sài gòn. Có
một sự thú vị của hai dòng di cư Tân nhạc: Sau 54 một số nhạc sĩ Tân nhạc miền
Bắc tìm vào Nam thì ngược lại một phần các nhạc sĩ miền Nam
lại ngược ra Bắc…
Tôi muốn nhận diện nhạc Sài gòn xưa
bằng cách lướt qua một số nhạc sĩ và tác phẩm đáng chú ý của họ trong những dòng
nhạc ít nhiều tương đối có giá trị ở một vài đóng góp đáng nhớ,còn những dòng
nhạc dạng tâm lý chiến,tình ca lính Cộng hoà, nhạc tình ca âm hưởng quê hương
trên nền tiết điệu Boléro… chưa được nhắc đến ở đây.
Ns Cung Tiến và một bản thảo
Ns Cung Tiến và một bản thảo
Cung Tiến là một nhạc sĩ khai thác sự lãng mạn của nhạc cổ điển châu
Âu nhiều nhất trong các bài hát theo âm hưởng demi-classicque hoặc néo-classique.Năm
54 ông viết Thu vàng với tiết điệu
valse rất Danube blue mở đầu cho
phong cách này của ông.Sau đó là Hoài cảm
rất bàng bạc Schubert.Ông còn những bài nổi tiếng khác như Nguyệt cầm,Đêm Hoa đăng…Người đầu tiên ở Việt Nam mượn những chủ đề
nhạc cổ điển(nhưng có ghi rõ xuất xứ nhạc đề-theme đàng hoàng và không lạm dụng
khai thác) để trang trí và kết ngọc cảm tác trong các bài hát chính là ông. Một
người khác cũng nằm trong xu hướng nhạc trí thức và hoài cổ này(nhưng ít Tây hơn)
là Văn Phụng với các tác phẩm Ô mê ly,Bức hoạ đồng quê… đến tận bây giờ vẫn thường được hát qua giọng ca Ánh
Tuyết. Vũ Thành và Phạm Đình Chương cũng là những người”gần
hội gần thuyền”của hai người trên. Vũ Thành có Gíâc mơ hồi hương,,Nhặt cánh sao rơi,Thuỵ khúc…Phạm Đình Chương gây
ấn tượng nối tiếp từ những bài của những năm 50(Tiếng dân chài, Được mùa…) để có thêm những Ly rượu mừng ,Mưa Sài gòn-mưa Hà nội, Nửa hồn thương đau, Người đi qua đời
tôi, Mộng dưới hoa…phần lớn là phổ thơ.
Từ Công Phụng cũng man mác phong cách trên nhưng nhẹ hơn. Nếu những
người trên là cỗ xe song mã thì Từ Công Phụng đã mang bóng dáng”máy hơi nước”.
Nhạc của ông cũng rất gần gũi với màu âm của Đoàn Chuẩn. Đó là sự nối tiếp ở một
cung bậc mới. Ông thường được nhắc đến với Trên
đỉnh mùa đông .Và những giai điệu-ca tử như:Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?..(Bây giờ tháng mấy).nổi tiếng qua
nhiều thế hệ mà bọn học trò chúng tôi thường say mê ngân nga rồi nghịch ngợm sửa
lại: Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em?
Ngô Thụy Miên là một salon tình ca khác đượm áo trắng và mực tím. Bây
giờ đã xuất hiện phố thị với xe máy chạy bằng động cơ diesel. Nhạc của ông là
nhạc mưa, nhạc mây và nhạc lụa. Những bài khó quên: Áo lụa Hà Đông(thơ Nguyên Sa), Mùa thu cho em, Niệm khúc cuối, Paris có
gì lạ không em?(Nguyên Sa) Giáng Ngọc…Ông
chỉ viết khoảng trên chục bài nhưng bài nào cũng nổi tiếng(Có người lại thích
khoe khoang viết hàng trăm bài nhưng số bài để người ta nhớ là con số minium)
Hết mùa áo trắng với tình buồn nhẹ
thênh là bước đến những bản tình ca đau đớn và thân phận hơn của Vũ Thành An. Nhạc của ông không còn là
sương mây như của Ngô Thụy Miên mà là ảo mờ khói thuốc: Một làn khói trắng ru đời vào quên lãng…Đó là nỗi buồn một thế hệ sống
mất niềm tin và tình yêu chỉ còn là một bấu víu vào hư ảnh. Với loạt bài 10 Tình
khúc không tên của Vũ Thành An ta có thể đọc thấy thông điệp nghẹn ngào đó.
Khi tâm hồn mềm yếu không còn chỗ
nương tựa trong tình yêu nữa thì tình yêu khoả lấp bằng nhục cảm nhiều hơn. Nó được
khúc xạ trong âm nhạc của đôi song ca(và cũng là người sáng tác ca khúc) Lê Uyên-Phương. Nhạc của họ như Vũng lầy của chúng ta, Nỗi buồn dâng hiến…chịu
ảnh hưởng của phong trào hippy trên thế giới với lãnh tụ tinh thần là chủ nghĩa
hiện sinh của Jean Paul Sartre. Tác giả của ”Tồn tại và hư vô” này đã gây ảnh hưởng lên đại bộ phận thanh niên
thế giới vào thập niên 60 mà The Beatles cũng chịu tác động với khẩu hiệu ”Make love not war” để phản ứng lại với
chiến tranh đang làm cho thanh thiếu niên tuyệt vọng. Ở Việt Nam , Lê-Uyên Phương là người đầu tiên
cổ suý nó và mang ái ân vào âm nhạc như một thứ ma tuý để trốn tránh hiện thực.
Sau này có Đức Huy, Trịnh Nam Sơn xuất
hiện ở tiền bán thập niên 70 cũng mang một phần tinh thần đó vào ca khúc của mình
rồi nối dài nó cùng những năm tháng tha hương trong dòng nhạc của người Việt Hải
ngoại. Và lúc đó bên nhánh nhạc trẻ, một loại nhạc Pop-Rock hiện đại hơn du nhập
theo những đội quân viễn chinh, cũng là con dân của chủ nghĩa không biết đến ngày
mai đó.
Ban nhạc Phượng Hoàng
Ban nhạc Phượng Hoàng
Nhạc trẻ vào Sài gòn từ những năm
đầu thập niên 60 với hàng loạt ban nhạc nhái Mỹ từ phong cách cho đến cái tên.
Phải đến khi có ban Phượng Hoàng của
Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà thì nhạc trẻ Sài gòn mới có gì
đó sáng tạo hơn và hoàn toàn bứt ra khỏi những nhạc ngữ tiền chiến còn bàng bạc
đó đây.Những Thương nhau ngày mưa ,Mặt
trời đen… cũng là một mạch chảy của tinh thần hiện sinh của một lớp trẻ tự
cho rằng mình đang lạc loài ngay trong ngôi nhà của mình rồi yêu vội trong tuyệt
vọng, rồi tìm quên bằng nhiều ảo giác của xác thịt. Nhạc của Phượng Hoàng được
coi là một trong những đại biểu đương đại nhất thời đó.
Nhưng ở Sài gòn lúc này đâu phải
chỉ có những dòng nhạc sentimental và Pop-Rock.Một vầng dương khác đã mọc lên bên
cạnh“mặt trời đen”: Nhạc của phong trào du ca, phong trào sinh viên đấu tranh và
nhạc phản chiến, nối tiếp dòng hùng ca của Tân nhạc
buổi đầu và là một bè song thanh với nhạc cách mạng ở miền Bắc. Nó như một
ý thức tỉnh táo đối trọng với những cơn say tình yêu hoặc ảo giác trong thú đau
thương của một bộ phận lớp trẻ miền Nam.
Nhạc Du Ca ra đời khoảng năm 1966 do Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia
Lập khai sinh và cầm chịch. Phong trào này gây ảnh hưởng rất mạnh với thanh
niên, SV-HS lúc bấy giờ qua các hình thức Thanh Niên ca, Thiếu Nhi ca, Sử ca, Cộng
Đồng ca…với nội dung tích cực, lành mạnh ngợi ca tình yêu nhân loại và quê hương,
nó là một dòng nhạc mang ý thức cảm hoá, khai phá tâm hồn, là một cách phản kháng
lại dòng nhạc tình ca ru ngủ, mơn trớn đương thời. Song song với Du Ca còn có
nhạc của phong trào Sinh Viên đấu tranh ra đời sau đó vào khoảng những năm đầu
thập niên 70 với các gương mặt như Tôn
Thất Lập, Trần Long Ẩn, Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Phú Yên, Trần Xuân Tiến,Trương
Quốc Khánh…với nội dung và tình tự được gợi mở từ Du ca.
Một trong những nhạc sĩ đặc biệt
và nổi danh nhất của Sài gòn xưa và của cả bây giờ là Trịnh Công Sơn đã đề xướng một dòng nhạc mới: nhạc phản chiến. Xuất
hiện như một người viết tình ca xuất sắc và như là một đại biểu của tình ca Sài
Gòn xưa với những nét giai điệu độc đáo, tài hoa và ca từ xuất chúng trong vô vàn
những tình khúc giản dị mà sang trọng, triết lý mà chân thành, giàu xúc cảm; nhưng
rồi cũng từ chữ tình ấy Trịnh Công Sơn đã viết nên những bài hát chống chiến
tranh nổi tiếng hầu hết tập trung trong tuyển tập ca khúc Da Vàng của ông. Những bức thông điệp phản chiến chan chứa tình yêu
này là một hiện tượng đặc biệt của nhạc Sài Gòn xưa với những bài hát tuyệt tác
không cần kể tên mà ai cũng biết.
T.M.P
T.M.P
(Kỳ tới : Bài 9 - Trịnh Công Sơn)