Bài 11(Bài cuối):
Như vậy chúng ta đã lướt qua gần 70 năm Nhạc Việt(1938-2004).Cái hôm
qua và hôm nay đã được nhận diện lại- dù chỉ là cưỡi ngựa xem hoa.Những nét phác
thảo đó với một vài cận cảnh -tuy rời rạc-
chắc cũng tạm đủ để ta hiểu được phần nào nền âm nhạc của người Việt(Nhạc ở đây
được hiểu là ca khúc)với những hoa trái(ngọt lẫn đắng),những mùa màng bội
thu,những mùa màng thất bát và cả những rào cản trên cánh đồng đang cày bừa cùng
những con sâu buồn như những nốt trầm lạc phách…
Học tập = Bắt chước?
Tân nhạc giai đoạn đầu(1934-1945)là
cả một sự khai phá trong ý nghĩa mở ra một thời đại âm nhạc tiên tiến của Việt
Nam.Đến lúc này ở Việt nam mới có khái niệm nhạc sĩ,người viết nhạc(Trước đó,những
tác phẩm âm nhạc là vô danh,được truyền khẩu trong dân gian với các dị bản với
các thêm bớt mang tính tập thể).Cái xác định được ngay là nền Tân nhạc đó chịu ảnh
hưởng lớn của nhạc Tây vì vay mượn nhạc học của họ.Nhưng hoàn toàn không có sự
bắt chước trong các tác phẩm tiêu biểu của những gương mặt xuất sắc Tân nhạc.Những
cái gì là bắt chước đã mau chóng bị đào thải vào quên lãng.Những bậc tiền bối của
Tân nhạc như Văn Cao,Đặng Thế Phong,Nguyễn Văn Thương,Nguyễn Xuân Khoát,Lê Thương…cho
thấy họ đã học tập như thế nào,bị ảnh hưởng như thế nào nhưng không hề bị nghiêng
ngã hoặc bước sang bên kia ranh giới của sự bắt chước(Xem bài 3-4 và 5).Các tác phẩm của các bậc tiền bối này nếu so sánh
với Tây Phương có thể không hơn,nhưng nó cũng không hề thua kém bao nhiêu trong
việc vận dụng kỹ thuật với một nguồn cảm hứng chân thành.
Giai đoạn 45-54,yếu tố dân tộc được
khai thác với một ý thức mạnh mẽ hơn và thành quả to lớn của nó chính là biến âm
nhạc thành một thứ vũ khí đấu tranh chính trị lợi hại và những tình tự quê hương
của nó.Đó chính là gợi ý,là mẫu mực cho nền âm nhạc cách mạng miền Bắc trong thời
kỳ 54-75 đã đẻ ra hàng loạt bài ca cách mạng điển hình đã trở thành kinh điển và
truyền thống với giá trị như một nhật ký lịch sử sống động.Nhiều nhạc sĩ đã chịu
ảnh hưởng nhạc Nga,Nhạc Trung quốc(Được nhà nước gửi đi đào tạo chính qui)nhưng
chính những tác phẩm học tập không bắt chước mới được kính trọng và lưu truyền
rộng rãi lâu dài(Xem bài 6)
Nhạc sĩ Phạm Duy-Cây cổ thụ của nhạc Việt
Nhạc sĩ Phạm Duy-Cây cổ thụ của nhạc Việt
Cũng thế,khi nhạc thương mại lần đầu
tiên xuất hiện vào cuối thập niên 60 tại Sài gòn tạm chiếm thì bên cạnh những dòng
nhạc vô giá trị,vô thưởng vô phạt vẫn xuất hiện những điểm son của một loại tình
ca học Tây nhưng không giống Tây theo kiểu”Ngả nón chào người quen”.Đó là các tác
phẩm nổi bật của Phạm Duy,Trịnh Công Sơn và một số nhạc sĩ tên tuổi khác của Sài
gòn.
Gía trị nghệ thuật, giá trị nhân sinh và giá trị thương mại.
Ca khúc là một thể loại âm nhạc của
quần chúng.Nó cắm rể sâu vào nhạc Việt khi tìm thấy giá trị nhân sinh qua việc
dùng âm nhạc để động viên cho cả hai cuộc kháng chiến trường kỳ.Do vậy,dễ hiểu khi
ca khúc nghệ thuật không phát triển tương xứng với ca khúc phổ thông.Cả yếu tố
chiến tranh liên miên và đói nghèo cũng không cho phép các nhạc sĩ có điều kiện
thể nghiệm những ý tưởng nghệ thuật cao siêu ngoài những dự án nghệ thuật rất
phổ thông.Tuy nhiên giá trị khai phá không phải vì thế mà không có trong các ca
khúc phổ thông của những tên tuổi lớn đã kể trong các loạt bài trước.(Ngược lại
có những ca khúc viết theo hình thức nghệ thuật nhưng lại không có giá trị sáng
tạo nào đáng kể!)Nghệ thuật vị nghệ thuật ít có chỗ đứng trong Tân nhạc ngoài
những thông điệp nhân sinh mà nó gửi gắm qua lời ca bằng sự chuyển tải của một
dòng giai điệu không quá phức tạp để phù hợp với tai nghe của quảng đại quần chúng.
Nhạc thương mại là con đẻ của Tư
bản qua hình thức kinh tế thị trường.Khi Việt Nam tiếp xúc với Tư bản bằng sự
thống trị của người Mỹ thì âm nhạc lập tức được định hướng như một sản phẩm tiêu
thụ đúng như đã diễn ra ở phương Tây.Đó là một mặt bắt chước đúng nghĩa.Tuy nhiên,những
tác phẩm “hướng tiêu thụ”này không chỉ đẻ ra những mặt hàng chợ hàng loạt mà còn
có những nhạc phẩm thương mại có giá trị cao theo kiểu hàng hiệu.Nhạc Sài gòn xưa(Xem
lại bài 8)là một minh chứng cho hai kiểu”hướng
tiêu thụ”cấp cao và cấp thấp.
Không phải cứ đem ngũ cung vào nhạc
học của thất cung là có đông–tây giao hoà.Pha một ly nước chanh đơn giản là thế
mà vẫn có người pha dở pha ngon.Chuyện “mix” ngũ cung và thất cung không khéo có
thể là giả lập dân tộc-hiện đại.Cách pha chế của các nhạc sĩ Tân nhạc bậc thầy
là một ví dụ của lối pha chế tài hoa(Dĩ nhiên tính hiện đại lúc ấy khác bây giờ.Tính
hiện đại hôm qua không là gì cả so với tính hiện đại hôm nay).Và không phải cứ
viết ngũ cung là dân tộc khi yếu tố đó kém giá trị sống động mà cứ đứng im với
cái ngày hôm qua đã chết.Cũng không thể đem chuyện nhạc sĩ phương Tây đi thâu
thái ngũ cung châu Á để khuyến khích việc vứt bỏ hoàn toàn dân tộc tính để viết
nhạc thuần Tây phương.Họ(những người phương Tây)đến với âm nhạc da vàng với tư
cách người chinh phục khi đã tường tận hết và khai thác triệt để nhạc tính của
họ.Trong khi đó,ta chưa am hiểu hết và khai quật hết những “mỏ âm thanh” của dân
tộc và đến với âm nhạc da trắng với vị thế người đi học.Cho nên,không biết người,biết
ta mà bắt chước mù quáng sự thâu thái của họ ta có thể rơi vào tình trạng giả lập
hiện đại.Như thế nó còn tệ hơn anh bảo thủ chỉ biết khư khư ôm lấy cái quốc nội.
*******
Tương lai của nhạc Việt đang nằm
trong tay các nhạc sĩ trẻ của thế hệ hôm nay hay ngày mai hoặc ngày mai nữa,không
quan trọng.Nó được quyết định bởi cách nhìn của họ-trên cái nền tài hoa của mỗi
người-về những vấn đề trên.
T.M.P
T.M.P