Bộ môn
Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại.
Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của
công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ
: kỹ thuật hiện đại
cung cấp cho quần chúng – nhất là thanh niên – những phương tiện
giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn
những bài bản vần vè trước
đây – dù sao cũng gắn liền với nếp
sống nông thôn.
Nhưng
chất thơ lại là một
phẩm chất khác của đời sống,
không chỉ nhắm giải trí, nó tiềm
ẩn trong tâm linh ; nó nằm dưới, nằm
ngoài vần điệu. Và cần yếu
cho con người mọi sắc tộc
và thời đại.
Chất
thay thế, hay bù đắp cho sự thất
thoát của thi ca là ca
khúc. Trong nghệ thuật âm nhạc, theo bén gót kỹ
thuật hiện đại, ca khúc chuyển
mình theo những dạng thức khác nhau.
Âu cũng là điều
hợp lý. Thoạt kỳ thủy nước
nào cũng vậy, thi ca bắt đầu từ
hát xướng, trong tín ngưỡng,
tôn giáo, giữa cung đình
hay nơi công trường lao động.
Bản lề giữa hiện
tượng “thơ nhạc giao duyên » ấy
là những bài thơ được phổ
nhạc, trở thành nhạc phẩm có giá trị
tự tại. Việc
phổ nhạc vào thơ làm giàu cho thơ, cho nhạc và tâm hồn người nghe. Và tại
Việt Nam, có lẽ người có công đầu
là Phạm Duy. Từ Cô hái mơ, thơ Nguyễn
Bính, 1942, đến Bên kia
sông Đuống, thơ Hoàng Cầm 2010 , anh đã phổ nhạc trên dưới
300 bài thơ.
Làm việc
miệt mài, hiện nay Phạm Duy ở tuổi
90, đang hăng say sáng tác và hoàn tất
một đĩa CD phổ nhạc thơ
Bích Khê.
Trong quá trình 70
năm phổ nhạc, từ những
bài thơ kinh điển – mà chưa chắc đã nhiều
người biết hay còn nhớ – từ nhiều
bài Thơ Hàn Mạc Tử, nối
kết thành trường ca, đến Màu thời gian, 1940, của Đoàn Phú Tứ : …Ngàn trùng e lệ phụng quân ương…
(Phạm Duy 1985) đến tiếng khóc não nùng trong Tưởng như
còn người yêu, 1971 của Lê thị Ý : Ngày mai đi nhận
xác chồng… ; những bài thơ được chọn
phổ nhạc trong những điều kiện
lịch sử và tâm lý khác nhau, có khi vì những động cơ
riêng, do đó đến và ở lại với
những mảng quần chúng khác nhau, khoanh vùng trong những thời điểm,
địa phương, thế hệ
khác nhau. Nói về nhạc Phạm Duy chung chung, đã là việc khó. Nói về nhạc phổ
thơ của Phạm Duy còn khó hơn
vì phải vượt qua ba cửa ải : quan niệm
về thơ, sở thích về
nhạc và ý kiến về… Phạm
Duy.
Lấy ví
dụ mới đây, bài Bên kia sông Đuống được Phạm
Duy phổ nhạc khi tác giả Hoàng Cầm tuổi cao và trọng
bệnh ; Phạm Duy sáng tác mong bạn mình được nghe trước khi qua đời, đầu năm 2010. Nhưng
không kịp. Như vậy, về
mặt tâm cảm, nhạc phẩm
có giá trị cao, thậm chí thiêng liêng. Phạm Duy tận dụng
nhạc thuật và tâm huyết để tôn vinh tác phẩm
của bạn, do đó theo sát câu chữ của văn bản
– và những điều kiện lịch
sử đã tạo ra văn bản. Nhưng người
nghe không phải ai ai
cũng nghe ra ! Và người
nhạc sĩ già sau 70 năm
dày gió dạn sương, không khỏi hoang mang
Để giải thích và giải tỏa hiện
tượng này, Eric Henry, một người Mỹ
sành âm nhạc, trong một bài báo ngày 5/8/2010, trên
mạng, sau khi đánh giá
cao tác phẩm dài 10 phút,
đã viết : một ca khúc phổ biến (hay đại
chúng, popular song) bao giờ
cũng có phần giới thiệu toàn bộ
các giai điệu và nhạc khí (interlude), thêm phầm điệp khúc, hát lại
giai điệu chính. Bên kia
sông Đuống là ngoại lệ
Từ những phân tích nhạc thuật chính xác, tác giả
Eric Henry đã đưa ra một nhận xét tâm lý : quần
chúng thích một ca khúc
khi « sở hữu » được một
giai điệu, để có thể hát thầm
hay hát nhẩm, ví dụ bài Tiễn em (Cung Trầm
Tưởng-Phạm Duy, 1958) : Lên xe tiễn em đi / chưa bao giờ buồn thế.
Thơ không xuất sắc và nhạc
cũng thường thôi, nhưng người nghe tâm đắc
vì « sở hữu ». Nghiệm cho cùng, ở đời, yêu cái gì hay yêu ai, trên hết, và cuối cùng, là yêu mình trước đã. Ngoài đề).
Bài thơ
Bên kia sông Đuống là một ví dụ có vị
thế đặc biệt : không phải
ai ai cũng thích toàn văn, với
nội dung lịch sử, chính trị
của nó. Về nghệ thuật,
nó không đủ dài để làm trường ca ; không đủ
ngắn để được ghi nhớ
như một tác phẩm trữ tình. Nó không đủ
sắc bén để làm vũ khí, và không có cái
sâu lắng để làm một bài thơ
tình tự. Người đọc thích và nhớ
từng câu, từng đọan :
Tranh Đông Hồ gà lợn
nét tươi trong
Màu dân tộc
sáng bừng trên giấy điệp…
Nhưng
câu thơ này chỉ hay trong toàn cảnh bài thơ. Như Ao thu lạnh
lẽo nước trong veo, nổi tiếng nhất
của Nguyễn Khuyến, chỉ
hay trong toàn cảnh bài
Thu điếu.
Những
cô hàng xén răng đen
Cười
như mùa thu tỏa nắng
Cũng vậy.
Người nghe nhạc phẩm Bên kia sông Đuống
chờ đợi âm vang đặc biệt ở
những câu mà họ đã « sở hữu
» từ vài ba mươi năm, và Phạm Duy đã không thể ưu đãi, như
anh đã luyến láy câu Mai
Châu mùa em thơm nếp xôi, trong bài Tây Tiến mà anh phổ thơ Quang Dũng, trong một tâm lý khác.
Tâm lý là yếu
tố quan trọng, điều kiện
hóa sáng tạo nghệ thuật, điều
này ai cũng biết. Trong một ngoại cảnh
lịch sử, trước một
bài thơ cụ thể, của
một tác giả nổi tiếng
hay chưa, quen biết hay không, rung cảm của nhạc
sĩ phải có khác. Phạm Duy trong 70 năm phổ nhạc cho hằng
trăm tác giả khác nhau là
một thực nghiệm cho điều
đó.
Bên kia sông Đuống
được phổ nhạc trong tình cảm
đặc biệt của Phạm
Duy đối với Hoàng Cầm có đặc tính riêng, nên nhạc sĩ đã phải
đề xuất một thể
lọai nhạc mới, anh gọi
là rhapsody- trường khúc
tự do, (anh dịch chữ rhapsody) vượt
ra những khuôn khổ quy định để
tôn vinh văn bản bằng nhiều tiểu
khúc đa dạng, chẳng khác tiếng đàn Thúy Kiều, có khi đầm ấm dương
hòa, có khi tiếng sắt tiếng vàng chen nhau, dựa theo nội
dung bài thơ có tính cách
lịch sử nhất định
– diễn tả giấc mơ
thanh bình đối lập với chiến
cuộc khốc liệt.
Một độ chênh khác, nhỏ thôi, cũng nên tỏ bày : Hoàng Cầm là nghệ sĩ duy cảm, có lúc duy tâm ; Phạm Duy là người duy lý. Bên kia sông Đuống được sáng tác thán 4- 1948, trong cảm xúc, khi tác giả được tin giặc
Pháp tràn vào chiếm làng
mình ; được tin lúc nửa khuya Hoàng Cầm xúc động làm một
mạch đến gần sáng thì xong bài thơ dài, không toan tính, sắp xếp
gì. Còn Phạm Duy khi phổ nhạc thì toan tính, suy nghĩ bằng âm nhạc về một
bài thơ dài, trong… nửa năm ! Có lẽ trong tinh thần duy lý đó, nhiều câu thơ « siêu thực » mà Hoàng Cầm cho là « thần linh », trong Lá Diêu Bông ,
1959,hay Quả Vườn Ổi, không còn xuất
hiện trong lời ca :
Váy Đình Bảng
buông chùng cửa võng…
(…) Qua cầu
bà Sấm bến cô Mưa…
Nhưng
nói chung, thì Phạm Duy
coi trọng văn bản, như với
Lá Diêu Bông, Đạp lùi
tinh tú (Về với ta, Hoàng Cầm, 1960). Ca khúc Qua Vườn
Ổi khác với
bài thơ Quả Vườn Ổi.
Cỗ bài Tam Cúc gần với văn bản
Cây Tam Cúc, 1959, duy nhạc
sĩ có thêm một câu : xua
tốt điều đè lũ tốt đen không có trong văn bản Hoàng Cầm và đã gây tranh cãi.
Những
bài này trích từ tập Về Kinh Bắc
(1959-1960) Phạm Duy phổ nhạc vào năm 1985 (con số 5 thường
đánh dấu những khúc quành trong đời Phạm Duy : 1945, 1955, 1975, 1985, 2005… Ngoài đề)
Trên 300 bài nhạc
phổ thơ thì còn khoảng 100 bài phổ biến một
số bài được truyền tụng,
trở thành kinh điển trong lịch sử âm nhạc,
khiến nhiều người dọ
hỏi « bí quyết » phổ nhạc.
Có lúc làm Phạm Duy bực mình, vì « làm nhạc chớ có phải
nấu phở đâu ». Nhưng có lúc nhạc sĩ vui tính trả lời, như
khi đưa ra ví dụ bài Kiếp nào có yêu nhau, phổ nhạc
thơ Minh Đức Hoài Trinh (1958) và thổ lộ « bí quyết
». Lời hát :
Đừng
nhìn em nữa anh ơi !
Hoa xanh đã phai rồi,
hương trinh đã tan rồi
Đừng
nhìn em ! Đừng nhìn em nữa anh ơi !
Đôi mi đã buông xuôi, môi nhăn đã quên cười.
Hẳn người thôi đã quên ta !
Trăng Thu gầy
đôi bờ, chim bay xứ xa mờ.
Gặp người chăng ? Gặp người chăng, nhắn
cho ta
Hoa xanh đã bơ
vơ, đêm sâu gối ơ thờ.
Kiếp
nào có yêu nhau, thì xin tìm đến
mai sau
Hoa xanh khi chưa
nở, tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ
có yêu nhau, thì xin gạt
hết thương đau
Anh đâu anh đâu rồi
? Anh đâu anh đâu rồi ?
Đừng
nhìn nhau nữa anh ơi !
Xa nhau đã xa rồi,
quên nhau đã quên rồi
Còn nhìn chi ! Còn nhìn chi nữa
anh ơi !
Nược mắt đã buông xuôi, theo tiếng hát qua đời.
Đừng
nhìn nhau nữa… anh ơi !
« Bạn
bè yêu nhạc thường hỏi tôi về
cái gọi là « bí quyết phổ nhạc
». Âu là tôi xin phép nữ
sĩ Hoài Trinh cho tôi được
in ra sau đây nguyên bản
của bài thơ để bạn
so sánh :
Anh đừng
nhìn em nữa — Hoa xanh đã
phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
— Xót lòng nhau mà thôi
Người
đã quên ta rồi — Quên ta
rồi hẳn chứ ?
Trăng mùa thu gẫy
đôi — Chim nào bay về xứ ?
Chim ơi
có gặp người — Nhắn dùm ta vẫn
nhớ
Hoa đời
phai sắc tươi — Đêm gối sầu nức
nở
Kiếp
nào có yêu nhau — Nhớ tìm
khi chưa nở
Hoa xanh tận
nghìn sau — Tình xanh không lo sợ.
Lệ
nhòa trên gối trắng — Anh đâu, anh đâu rồi !
Rượu
yêu nồng cay đắng — Sao cạn mình em thôi !
Chắc bạn đọc cũng thấy
bài thơ phổ nhạc được
tôi thêm câu, thêm chữ.
Phổ nhạc là chấp cánh cho thơ
bay cao. Bài thơ ngắn ngủi, cô đọng
này, vì có thêm chữ nên
không còn tiết vần đều đều,
bằng phẳng nữa. Bây giờ
nó quay cuồng theo nét nhạc, câu nhạc. Giai điệu của câu « đừng
nhìn em nữa anh ơi » chuyển rất đột
ngột, đi từ nốt trầm
lên nốt cao nhất với hai « nhẩy
bực » quãng 5 để diễn tả
sự tột độ của
tình cảm. Cái syncope sau
câu « đừng nhìn em » làm
cho mọi người thấy được
sự nghẹn ngào của bài thơ và bài hát »[1].
( Ngoài đề
: câu hương trinh đã phai
rồi, Phạm Duy thêm vào, là…hóm)
Nói thêm cho rõ : ca khúc gồm
154 chữ, dài gấp rưỡi bản
gốc. Bản gốc là thơ
năm chữ theo luật thi, nhịp lẻ ; ca từ
nhịp chẵn 6-10 theo sườn lục bát vần
lưng kết hợp với
vần chân ; hai câu ngũ
ngôn trở thành bán cú
(hémistiche) cho câu 10 từ
với vần giữa câu. Như
vậy, chỉ về âm luật
thôi, bài hát đã khác bài thơ.
Những câu, những từ, những
âm (đừng… đã) luyến láy tạo ý nghĩa mới
cho lời thơ – chưa kể
nhạc thuật phong phú, tha thiết mang chất bi kịch.
(Trường
hợp tiền lệ tương
tợ : khi Phạm Duy phổ nhạc bài Thuyền
viễn xứ, 1953, thuyền ơi viễn
xứ xa khơi…sóng Đà giang… thơ của Huyền
Chi, một cô hàng vải trong chợ Bến Thành, không mấy
ai biết đến, anh đã biến nhịp lục
bát đơn điệu, tẻ nhạt
thành những tiết tấu sinh động,
tha thiết, phong phú.)
Sau khi xét qua hai ví dụ
cụ thể, chúng ta thử đi vào một đề tài sâu hơn
: Sự thành hình của một thể
loại, qua một nghệ sĩ sáng tác. Phổ
nhạc thơ là gì ?
Phạm
Duy đã đưa ra định nghĩa, từ kinh nghiệm bản thân thời
1940, anh chưa sành nghề : phổ nhạc
vào thơ là hát những bài thơ đó lên, theo lối của tôi. Tức
là tôi phổ nhạc đấy. Tôi chọn
2 bài (của Huy Cận) Ôi nắng vàng sao mà nhớ
nhung (Nhớ hờ) Bỗng dưng
buồn bã không gian (Thu rừng). Hát hai bài thơ trên đây, đối với tôi là sự
tập tành phổ nhạc. Tôi chỉ
thành công 20 năm sau khi tôi phổ
nhạc bài Ngậm ngùi. [2]
Nhưng
sao Phạm Duy chưa phổ nhạc
hai bài kia (thay vì đặt
nhạc cho vô số bài thơ vớ
va vớ vẩn) ; phải chăng anh chưa
tìm ra được âm giai phù hợp, hay nhạc điệu khác với,
thậm chí hay hơn, tiết tấu
sẵn có của hai nguyên bản ? Phạm Duy rất
thích bài Tràng giang, nhưng
thay vì phổ nhạc, anh vinh danh bằng cách khác, như sáng tác Chiều về trên sông,
« để vinh danh bài
thơ Tràng giang là bài thơ đã ám ảnh tôi từ
lâu [3]. »
Phạm
Duy tâm đắc về bài Ngậm ngùi, phổ
nhạc thơ Huy Cận,và thi sĩ cũng rất
hài lòng, không chỉ về nhạc thuật
:
« Nguyên bài thơ
đã là một giao lưu giữa thơ
Đường và thơ lục bát Việt
Nam rồi. Thơ hiện diện
từ mấy chục năm trước
đó, được trở thành nhạc vào lúc Việt Nam bị phân chia, ca khúc Ngậm ngùi của
Huy Cận-Phạm Duy giao tiếp hai thời thanh bình và khói lửa, gia hòa hai nghệ sĩ ở hai miền
đối nghịch. Về phương
diện thẩm âm, thẩm mỹ, bài đó xưng
tụng một cái đẹp sắp
sửa mất, đang mất hay sẽ mất,
với lời thơ êm ả,
bùi ngùi, thương tiếc, với nhạc
điệu ôm ấp, vỗ về,
an ủi. Hãy trả lại chúng tôi « mộng
bình thường » mà có lẽ chúng tôi đã, đang hay sẽ mất. Tôi cố
tình dùng hơi « oán »
trong bài ca phải nhấn giọng ở
chữ « bãi » trong câu « nắng chia nửa bãi chiều rồi », như
ta hát vọng cổ, nghe không ca sĩ !!! » [4]
Công việc
phổ nhạc vào thơ, không có « bí quyết », vì không chỉ
là việc kỹ thuật, hoặc
cảm hứng nhất thời.
Nó là sự giao hợp có cội có nguồn
sâu xa, nó đẩy sáng tạo nghệ thuật
đến những chân trời văn hóa và nhân bản xa hơn.
Thổi hơi nhạc vào lời
thơ, là một cách Đạp lùi tinh tú, như một lời
thơ Hoàng Cầm mà Phạm Duy đã biến
thành câu hát.
Trở lại tuổi hai mươi
của Phạm Duy, thời ấy anh chưa
là ca sĩ phụ diễn tân nhạc cho gánh cải lương Đức
Huy Charlie Miều. Anh chỉ mới hát nhẩm
riêng cho mình những bài
Nhớ hờ và Thu rừng của Huy Cận
nhưng đã phổ nhạc tài tình bài Cô hái mơ của
Nguyễn Bính, 1942.
Như vậy, nhạc phẩm
đầu tay của Phạm Duy không phải
là một độc sáng cá nhân, mà là một đồng tác, một
phóng tác, bằng cách phổ nhạc vào một
bài thơ ngắn, đơn giản
sẵn có. Từ đó, ta có thể suy ra cung cách sáng tạo của
Phạm Duy, là dựa vào một đề
tài sẵn có. Sau này anh
có những nhạc phẩm hoàn toàn tự
tạo, có phẩm chất sáng tạo
cao. Nhưng các bài này thường được khởi
thảo tự một thực
tại nào đó. Điều này là do tâm tánh của Phạm Duy, phản
ánh phần nào quan niệm cổ truyền
« thuật nhi bất tác ». Duy chỉ có quan niệm « thuật » thì di chuyển
trên một tọa độ rộng
rãi.
Một ví
dụ cụ thể : truyền
thuyết Trương Chi, đã được Văn Cao sử dụng cùng một
thời điểm. Bài Trương Chi của Văn Cao khá xa câu chuyện cổ : anh Trương
Chi chết rồi là thôi, tim không hóa đá
hóa ngọc gì ráo, và dĩ
nhiên, không hiện hồn để đòi nợ
tình. Anh hát ngang tàng : Ngồi
đây ta gõ ván thuyền, ta
ca trái đất còn riêng ta.
Nghĩa lý gì giọt nước mắt phụ
nữ !
Bài Khối
tình Trương Chi, Phạm Duy làm tại Huế, 1945 – có lẽ
sau Văn Cao – theo sát truyện
cổ về Trương Chi, thật
sự là truyện trong Tình sử của Trung Quốc.
Phạm Duy rất cụ thể,
thậm chí dung tục :
Tay dâng lên một
khay
Tim anh Trương
Chi là đây
Trong đêm khuya tiệc
trà vui bóng gia đình ai
Để thấy rằng sáng tác Phạm
Duy, dù độc sáng đến đâu, vẫn thường dựa
vào thực tại nào đó. Về phương diện
này, anh gần với Lê Thương .
Cô hái mơ
là một trong dăm ba thành
tựu đầu tiên của dòng âm nhạc cải cách theo cách nói thời đó. Với
Phạm Duy nó là « bài thử tựa bài thầy
» (coup d’essai, coup de maitre) khiến
ngày nay anh còn ngạc
nhiên tự phục tài mình và nhắc lại lời
khen của một chuyên gia Canada, Georges
Etienne Gauthier viết
trên tạp chí Bách Khoa,
Sài Gòn, 1970, ghi nhận :
« ca khúc biểu
lộ tất cả sức
tưởng tượng và nhạc hứng của
chàng nghệ sĩ, tất cả sự
táo bạo và coi thường ước lệ
của ông. Đoạn nhạc này, với
nhạc tính nhanh nhẹn và hơi mạnh
mẽ hiển nhiên là đoạn nhạc của
một nhà soạn nhạc có cảm
tính trẻ. Nhưng trong trường hợp Phạm
Duy, « trẻ » không có
nghĩa là vụng về hay do dự, bởi vì cần
phải ghi nhận lối viết
rất vững vàng, lối chuyển câu rất
hợp lý, cần nhất là phải
ghi nhận sự khoái vượt khó của chàng trẻ Phạm Duy. Và những
khó khăn ở trong đoạn này thì vô số : nào là tiết điệu khá phức
tạp của nét nhạc, nào là những nhịp ngoại
(syncopes) và những thanh
trình (intervalles) khó hát, những
nốt móc kép (double
croches) hiểm hóc, những chuyển biến
đột ngột từ hơi
trưởng qua hơi thứ. » [5]
Phạm
Duy theo sát văn bản, chỉ thay đổi vài chữ
cho dễ hát. Nhạc khúc nâng cao lời thơ và ý thơ.
Phạm Duy ngạc nhiên về sự chọn
lựa tác phẩm và nhiều lần ca ngợi
niềm im lặng của cô gái hái mơ,
đáp ứng lại những mối
tình câm nín của tuổi trẻ thời
đó. Theo tôi đó là một
bài thơ hay : nét trong
sáng, bình dị của Nguyễn Bính trong bài thơ
làm nổi bật thi vị nửa
mộng nửa thực qua từ
ngữ thuần việt, trừ
tên riêng Hương Sơn. Những từ
luyến láy đặc sắc vào vị
trí ưu thế của câu thơ.
Mãi về sau này, 1983,
Xuân Diệu, trong một bài viết ca ngợi Thế
Lữ, mới có dịp đề
cao Cô hái mơ, Nguyễn Bính làm 1937 :
« Chính khổ
cuối cùng, thứ tư, mới
là mơ mộng chính cống, mơ mộng
tuyệt vời, vì là mơ cho nên chỉ ở trong mộng
; Thế Lữ cũng đã từng « ta ôm thiếu nữ trong lòng – Người
yêu thoắt biến thành bông hoa rừng », nói là cô hái mơ không trả lời, mà nói trời
đất không trả lời, sự
đời không trả lời cũng được,
nhưng cái tuổi mơ, cái thế
mơ thì cứ mơ…
Cô hái mơ
ơi
Chẳng
trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi rồi
khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ
rơi…
Nhiều
bài thơ Thế Lữ, cùng với
bài Cô hái mơ này của Nguyễn Bính, tôi rất
trân trọng, vì tôi trân
trọng người thiếu niên vẫn
còn sống ở trong tôi, nó là cái vốn tươi mát, tin tưởng
ở trong tôi, và tôi sẽ đem chú ấy theo cho đến hơi thở
cuối cùng » [6]
Đây là tâm trạng
chung của nhiều người đã trải
qua những nghịch cảnh lịch
sử. Phạm Duy, đó đây, vẫn nói lên nhu cầu ấy, dù rằng
về Cô hái mơ anh không có dịp nói tường tận,
rành mạch như Xuân Diệu. Năm 2004, phổ nhạc bài Tình sầu
(Bốn mùa) của Huyền Kiêu (làm khoảng
1940) « xuân đến có chàng
đến hỏi… » Phạm Duy cũng muốn
tìm lại « người thiếu niên vẫn
còn sống trong tôi » như lời Xuân Diệu.
Sau Cô hái mơ,
là nhạc phẩm Tiếng thu (1945) phổ
thơ Lưu Trọng Lư,
một bạn thân, Phạm Duy theo sát văn bản, trong một âm giai dìu dặt mênh mông, thê thiết, tôn vinh giá trị bài thơ. Thời
kỳ này, nếu Phạm Duy đã ý thức được tài năng, thì dường
như chưa nhận định
rõ ràng tầm quan trọng trong việc phổ nhạc
vào thơ, nên trong 11 năm
anh chỉ phổ được 5 bài, trong đó có Tiếng sáo Thiên Thai (1952) của Thế
Lữ, một đỉnh cao của
nghệ thuật ca khúc đuợc phổ biến
rộng rãi nhờ ban Hợp ca Thăng long. Thời
gian du học ở Pháp (1954-1955), vừa tu nghiệp về nhạc
thuật, Phạm Duy đã quan sát xã hội phương Tây và ý thức
rõ vai trò của nhạc sĩ Việt Nam, trong bối
cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam.
« Khởi
sự là một người soạn
ca khúc, rồi không hề có một mặc
cảm nào cả, tôi cứ mãi mái là người
soạn ca khúc bởi vì sau khi đi học ở Pháp về
và nhìn vào tình trạng
sinh hoạt âm nhạc ở nước
mình thì tôi thấy không
thể đi vào con đường nhạc thuần
túy như nhạc cổ điển
Tây Phương được. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ rằng nếu
tiếp tục soạn ca khúc thì phải
thăng hoa nó lên, nghĩa là phải
làm sao cho cả hai phần nhạc và lời
càng ngày càng tiến bộ. Nghĩa là vào lúc cuối đời, làm sao nhạc
của mình có thể tiến dần
tới cõi giao hưởng mà hình như mọi người
đều coi là cái đỉnh của nghệ
thuật âm thanh và làm sao
cho lời ca của mình có thể được cho vào văn học
sử.
Ca khúc của
tôi, như mọi người đã biết,
về phần lời ca, đa số
là do tôi soạn, còn một số là những
bài thơ đã nổi danh hay chưa ai biết tới
khi được tôi phổ nhạc. Lý do tôi thích phổ thơ
cũng rất là giản dị, trước
hết, tôi yêu thơ từ ngày còn bé. Lớn
lên, tôi có nhiều bạn là thi sĩ làm thơ hay và làm cho tôi càng yêu
thơ hơn lên. Cuối cùng, tôi có một người tình rất
yêu thơ tiền chiến và làm 300 bài thơ
tình tặng tôi.
Tại
Pháp, một xã hội tiên tiến có nền văn hóa vững
chắc, quý trọng thơ văn, Phậm
Duy đã nhận thức : « Biên giới giữa ca khúc và thơ
gần như không còn nữa. Nhạc còn làm cho thơ
(hay lời ca cũng vậy) đi nhanh vào lòng người (…) và văn học sử , vì nó
đã không còn là một thứ nghệ thuật
yếu kém, un art mineur »
[7].Thời điểm này, trên nguỵệt san Thời Mới, Les temps modernes, tháng 2-1956 học giả Georges Mounin, cũng đưa ra một
nhận định tương tợ
Dĩ nhiên, cùng được
đào luyện tại Pháp, có những nhạc sĩ chọn
con đường khác, như Nguyễn văn Quỳ, đồng
lứa với Phạm Duy, hay Nguyễn
Thiện Đạo, Tôn Thất Tiết, trẻ
hơn.
Nói là chọn
lựa, kỳ thật mỗi nghệ
sĩ có cách tiếp thu và
sáng tạo theo tạng riêng, không thể đối chiếu.
Nhận
thức rõ về nghiệp vụ
khi từ Pháp về, anh đã liên tục phổ nhạc
một loạt non 20 bài thơ nổi tiếng,
trong năm năm, 1958-62 là thời
gian xã hội Miền Nam tương đối
còn đang ổn định.
1958 anh phổ
3 bài thơ Lưu Trọng Lư.
Nếu ở Tiếng thu, 1945, anh theo sát câu chữ, nhịp điệu,
thì PhạmDuy thêm chữ « Vần » vào tựa
đề Thơ sầu Rụng,
và thêm vào câu điệp khúc
quay đều quay đều quay đều gợi âm thanh và động
tác của người và guồng xa dệt lụa,
hình ảnh thân thiết một thời
gắn liền với bóng dáng người
phụ nữ – mẹ, chị
hay người em gái. Nhớ thơ Nguyễn
Bính
Ví chăng nhớ
có như tơ nhỉ
Em thử
quay xem được mấy vòng.
Ví chăng nhớ
có như vừng nhỉ,
Em thử
lào xem được mấy thưng…
Đến ca
khúc Hoa rụng ven sông,
theo bài thơ Còn chi nữa, thì PD đi xa nguyên tác, gồm thơ ngũ ngôn trừ
2 câu bốn chữ. Trong một điệu luân vũ cực
kỳ du dương, tràn đầy tiếc nuối,
Phạm Duy chủ yếu, sử
dụng, luyến láy những câu 4 chữ. Nói cầu kỳ một
chút, thì PhạmDuy đã đưa Kinh Thi vào, phá vỡ Đường Thi, đưa
tiết điệu lời ăn tiếng
nói dân gian vào khuôn khổ văn thơ
cổ kính, và mở rộng biên cảnh
của tình yêu, không còn
là « chuyện chúng mình »,
mà là cảnh phôi pha của trần thế,
dạt dào âm sắc, trùng trùng muôn đợt sóng xô giạt vào nhau triền miên không ngớt.
Thú đau thương,
từ một bài thơ cùng tên, được Phạm Duy kết
hợp với Một mùa đông cũng là một bản
tình ca đau buồn da diết. Nhạc đã phụ
họa với thơ làm người
nghe lịm người trong thú đau thương, nhắc nguyên văn câu thơ
Lưu Trọng Lư ít người
nhớ :
Thuyền
yêu không ghé bến sầu
Như
đêm thiếu phụ trên lầu không trăng
Lưu trọng Lư đã mượn
ý từ bài Xuân giang hoa
nguyệt dạ đời Đường
của Trương Nhược Hư:
Thùy gia kim dạ
biên chu tử
Hà xứ
tương tư minh nguyệt lâu
Dịch :
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó (mượn thơ Hàn Mạc
Tử)
Trăng sáng lầu
ai thương nhớ ai
Để
cùng thấy rằng việc làm thơ,
phổ nhạc, là việc giao cảm, giao hòa văn hóa sâu xa.
Cùng trong nền
Thơ Mới này, PhạmDuy còn phổ nhạc bài thơ
Chiều nổi tiếng của
Xuân Diệu, mà anh đổi tên thành Mộ khúc. Có lẽ để tránh tên một
bài thơ Hồ Dzếnh (nguyên có tên là Màu mây trên khói) đã được Dương Thiệu
Tước đặt nhạc và phổ
biến. Ít khi PhạmDuy đổi một
tiêu đề nôm na thành cầu kỳ. Lần này, có lẽ
Phạm Duy muốn tạo ra cảm
giác êm ả mong manh của một buổi
chiều quê, mà lời thơ Xuân Diệu
không tạo ra được, vì sắc sảo quá, phá tan không gian như có dây tơ bằng câu hỏi
từ đầu : không hiểu vì sao... Phạm Duy chuyển văn bản Xuân Diệu
sang một âm giai hiu hiu,
êm êm, lòng không sao cả.
Khi chọn tên Mộ khúc có lẽ Phạm Duy ít nhiều
nhớ đến bài Serenata của Toselli mà anh đã đặt lời Việt
… nhạc chiều của chúng ta (Chiều
tà, 1943).
Thời
điểm 1960, Phạm Duy phấn khởi có lẽ
nhờ thành công rộng rãi khi phổ nhạc thơ
Cung Trầm Tưởng, được giới
thanh niên trí thức hoan
nghênh nhiệt liệt. Cuốn sách Tình Ca tập
hợp thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc
Phạm Duy và họa phẩm Ngy Cao Uyên [8] 40 trang, khổ 20×25 cm, in đẹp, trình bày đẹp, là một sáng kiến
mới lạ, xưa nay hiếm
thấy. Tác phẩm thành công, một phần nhờ
đưa ra hình ảnh và những mối tình Paris, mới
mẻ, gợi hiếu kỳ. Quân lực
Pháp đã hoàn toàn triệt
thoái, nhưng ảnh hưởng văn hóa Pháp – cùng với văn hóa phương
Tây – du nhập ào ạt. Bài hát Tiễn em … Ga Lyon đèn vàng… thịnh hành đến mức độ
hàng chục nhạc phẩm khác nhại
theo « cũng lấy chủ đề là sự
tiễn đưa nhau ở sân ga » [9], dù rằng
Miền Nam thời đó, ít sân ga, đường xe lửa không thông suốt.
Thành tựu
dĩ nhiên là do tài năng phổ
nhạc Phạm Duy đang độ chín muồi, trước những
văn bản đương thời mà anh đồng
cảm. Có khi những xê xích lời thơ làm tăng giá trị
tác phẩm.
Bài Tiễn
em, nguyên tên của Cung
Trầm Tưởng là Chưa bao giờ buồn thế,
kết thúc :
Trời
em mơ có sao,
Mình anh đêm ở
lại
Trời
mùa đông Paris
Không bao giờ
có sao
Phạm
Duy đã du di :
Nơi em
có trăng sao
Anh một
mình ở lại
Trời
mùa đông Paris
Suốt đời thèm trăng soi
Bây giờ
khó có thể nói lời ca hay hơn lời thơ,
vì chúng ta quen lời ca hơn, nên chuộng lời ca, theo cái thuyết
« sở hữu » của Eric Henry dẫn
ở đoạn đầu.
Muốn
làm mới nghệ thuật, một
tác giả cần tìm nguồn cảm hứng
mới, làm mới rung cảm. Trong tinh thần này PhạmDuy đã tìm đến tác phẩm Phạm Thiên Thư,
thời đó là nhà sư dưới pháp danh Tuệ
Không (1964-1973). Động
hoa vàng, 1971, là một tập thơ xuất
sắc, vần điệu lục
bát theo truyền thống, nhưng lời
thơ mới lạ, thoát tục,
tài hoa :
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động
hoa vàng ngủ say
Động từ ngủ say thanh thoát, cao siêu. PhạmDuy kèm thêm ý “nhớ nhau“, đơn giản hơn
và hợp với lối kể
chuyện của một ca khúc. Vì đã ngủ
say rồi thì không thể… hát.
Ngày xưa
Hoàng thị là một ca khúc bình dị, trong ý tưởng và lời hát, trong nhạc điệu dạt
dào, thơ mộng :
Em tan trường
về
Anh theo Ngọ
về
Trưa
trưa chiều chiều
Ba câu đầu
là thơ Phạm thiên Thư, hai câu sau là nhạc sĩ pha chế :
Ôi con đường
về
Ôi con đường
về
Là tâm sự
tiềm ẩn một đời
Phạm Duy, sau này, cuối đời, mới
vỡ nghĩa và vỡ lẽ.
Sau đó, theo thơ
Phạm Thiên Thư, Phạm Duy làm liên tiếp
10 bài Đạo Ca, mà nhạc sĩ tự đứng
ra xuất bản, nhưng không mấy
thính giả.Quần chúng nghe nhạc là để vui tai và vui chơi,
ai đi tìm con đường “giải thoát” như thiền sư
và nhạc sĩ vọng tưởng.
Gần
đây, tò mò,tôi có hỏi Phạm Thiên Thư về cơ
duyên gặp gỡ để hợp
tác, anh giải thích là do
gợi ý, môi giới của Nguyễn
Đức Quỳnh, một đàn anh văn nghệ lúc đó tại Sài Gòn, mà PhạmDuy có nhắc đến trong Hồi
ký.
Nhưng
nhạc phẩm gây tiếng vang là sáng tác gắn liền với
thời điểm lúc ấy là chiến
tranh và những đau thương. Phạm Duy phổ
nhạc hàng trăm bài thơ trong chủ đề này, nhưng
anh thường nhắc lại bài Kỷ
vật cho em, phổ thơ Linh Phương
[10] đã gây xúc động lớn thời đó. PhạmDuy
tự hào vì thành quả này vì đã có công moi ra một bài thơ và một tác giả
ít người biết, từ một
trang nhật báo. Nhưng anh nhớ nhầm, ghi nhầm
thời điểm 1968, vì bài này dưới tên Để trả lời
một câu hỏi, Linh Phương làm ngày 20.2.1970, đăng nơi trang trong nhật báo Độc Lập.
Nhạc sĩ theo sát văn bản và luyến láy làm nổi bật câu hỏi
đầu bài : Em hỏi anh bao giờ trở lại,
thê thiết, não nùng, nhất là qua giọng hát Thái Thanh. Câu thơ Linh Phương cũng thường thôi nhưng xoáy sâu vào niềm đau thương của thời
đại, tạo cảm giác đặc
biệt trong liên tưởng, theo liên văn bản. Nó cũng nhắc đến một
bài hát Nhật, thời Nhật thuộc
(1940) mà Phạm Duy đã hát
thời anh chưa vào nghề : Hà nhật quân tái lai (bao giờ chàng trở lại). 1940-1941 là năm “long vỹ xà đầu khởi
chiến tranh” ; Phạm Duy tiếp nối xúc cảm
về người thương binh, dòng ca khúc bắt đầu
với Nhớ người thương
binh (1947) và Ngày trở về (1954).
Nhắc
chuyện cũ, để nhắc lại
rằng việc phổ nhạc
vào thơ không chỉ là sở thích hay nhu cầu
nhất thời, mà bắt rễ
từ những nguồn cội
xa xăm. Có nói cũng không cùng.
Ca khúc là một
thể loại nghệ thuật
phù du. Âm nhạc là nghệ thuật của
thời gian, nhưng nhạc giao hưởng
trường sinh hơn. Có lẽ ca khúc là thời
gian trong ngày tháng – thậm
chí, giờ phút gắn liền vời
cuộc sống cụ thể
trong đời người, trong xã hội, vào một thời điểm
nhất định. Và nó gắn liền với
đại chúng.
Nhìn lại
quá trình bảy mươi năm Phạm Duy phổ nhạc vào thơ
là nhìn lại những mảnh vụn
của cuộc sống, tự
thưở hiu hắt lá mơ rơi,
cho đến cô hàng xén cười như mùa thu tỏa
nắng, những người góa phụ
ngày mai đi nhận xác chồng. Những mảnh
vỡ của lịch sử.
Đóng góp của
Phạm Duy là đưa bài thơ đến người
nghe và giữ bài thơ trong ký ức tập thể
– một trang rời trong cuốn văn học sử
vô danh. Điều đáng trân
trọng trong một xã hội bấp
bênh, nơi con người thường nhớ
những điều nhỏ nhặt
và rời rạc. Hoặc nhớ
những điều mình muốn nhớ.
Không có cách gì chúng ta nghe lại toàn bộ
khoảng 300 bài thơ PhạmDuy đã phổ
nhạc _ trong đó có những bài không phải là hay, tác giả đã phóng tác, vì lý do này nọ, quan trọng nhất là thời
sự những năm đầu thập niên 1970 tại
Miền Nam. Hay những năm ở Mỹ.
Nhưng dù sao,nó cũng làm
tang chứng cho một thời đại,
một tâm lý văn hóa đã quá
vãng.
Nghệ
sĩ là một nhân chứng. Trong nghĩa này, nhạc phẩm Phạm
Duy là phản ánh của một giai đoạn
lịch sử nhiễu nhương,
một tâm thức giao động.
Riêng về
công trình phổ nhạc thơ, thì Phạm
Duy đã có những đóng góp
lớn lao. Là đã đưa nhiều bài thơ
hay về nghệ thuật , hoặc
có giá trị nhân chứng, đến với
quần chúng đông đảo. Và, mặt khác, đã ghi lại nhiều nét trong quá trình phát triển nền thi ca Việt
Nam già nửa thế kỷ. Nhạc
Phạm Duy là một mảng ký ức
văn học
Nhạc
phổ Thơ của Phạm
Duy là âm vang của thời đại qua thi ca.
Cũng là âm vang của
thi ca qua thời đại.
Đặng
Tiến (Paris) nguồn: ndanghung.com
=============================
[1] Phạm
Duy, Hồi
Ký 3, tr. 117-119, nxb Phạm duy Cường,
1991, Hoa Kỳ
[2] Phạm
Duy, Hồi
Ký 1, tr.199-200, nxb Phạp Duy Cường,
1990, Hoa Kỳ.
[3] Phạm
Duy, Hồi
Ký 1, sđd, tr. 369
[4] Phạm
Duy, Hồi
Ký 3, sđd, tr.120
[5] Phạm
Duy, Hồi
Ký 1, sđd, tr. 200
[6] Xuân Diệu,
Tuyển
tập
Thế
Lữ,
tr. 598, nxb Văn Học, 1983, Hà Nội
[7] Phạm
Duy, Nói về ca khúc và thơ phổ
nhạc,
Internet
[8] Tình Ca, Sài Gòn,
1959, không ghi nhà xuất bản
[9] Phạm
Duy, Hồi
Ký III, sđ d, tr.123.
[10] Linh Phương
, Kỷ
Vật
cho Em, Thư Ấn Quán, New Jersey, Hoa Kỳ,
tái bản
2008.
Xem thêm Thơ
Vũ hữu
Định,
tác giả
Còn chút gì để Nhớ, Thư Ấn
Quán, 2006