Không thể có một áng
văn hay, không thể có một lời nhạc bay bổng mà thiếu tự do trong đó... Đó là sự
thật, chí ít 38 năm qua, kể từ ngày "đảng đã cho em cuộc đời mới",
"đảng chỉ cho em đường đi tới" (!) Chính thể cộng sản đã bóp nát tâm
hồn và tính sáng tạo của tuổi trẻ ngay từ những bài học đầu đời, trước khi họ
trở thành một nhà soạn nhạc tự do đúng nghĩa của nó. Trong số các nhạc sĩ, ca
sĩ hiện nay, quá khó để tìm ra một người nghệ sĩ của nhân dân, chứ không phải
loại "nghệ sĩ nhân dân" của tư tưởng bố thí!...
Tôi không muốn gọi dòng nhạc mà chúng ta bàn luận ở đây với
cái chữ "nhạc sến". Nó trở nên miệt thị một cách thiếu hiểu biết về
âm nhạc nói riêng và nền văn hóa - nghệ thuật nói chung của Việt Nam. Do vậy,
tôi xin phép gọi dòng nhạc này là: Nhạc Muồi - như nhiều người hay gọi.
Chữ "Muồi" thường gắn liền với trái cây chín. Chín
một cách ngọt ngào, thơm mát tới tận ruột gan người dùng và nó chín một cách tự
nhiên theo quy luật tạo hóa, không phải là "chín ép" (trong miền Nam
gọi là chín "dú") hay dùng hóa chất như ngày nay chúng ta thấy vì mục
đích lợi nhuận trên hết.
Nhạc Muồi, Cải Lương và Tân Cổ Giao Duyên
Khi người nghệ sĩ Cải Lương cất giọng cho bản Vọng Cổ người
ta thường khen giọng hát đó: "Hát muồi quá!". Đó có phải làm cho Nhạc
Muồi thật gần gũi với Vọng Cổ như cái tên của dòng nhạc này nên được trân trọng
hơn là chữ "nhạc sến"?
Tôi là người miền Nam, cụ thể hơn: người Sài Gòn, nên không
rành rẽ về văn hóa miền Bắc. Nói như thế không có nghĩa phân biệt hay kỳ thị
vùng miền, bởi văn hóa miền Bắc mà tôi cảm nhận, hấp thụ và thích thú, học theo
hầu như do những người miền Bắc di cư từ những năm 1954 mang lại. Tôi có vài
người bạn như thế mà tôi rất quý trọng.
Chúng ta đều biết, nhạc cổ truyền Việt Nam dựa trên
"ngũ cung" thay vì "thất cung" như nhạc phương Tây.
Miền Bắc có Chèo Cổ thì miền Nam có Cải Lương , tất nhiên
Chèo Cổ có từ rất xưa so với Cải Lương.
Cải Lương mà thiếu Vọng Cổ, không còn là Cải Lương nữa. Bên
cạnh Vọng Cổ, trong Cải Lương còn các bài bản khác: Nam Ai, Nam Xuân, Khốc
Hoàng Thiên v.v... Nền tảng của Vọng Cổ xuất phát từ bài "Dạ Cổ Hoài
Lang" của nhạc sĩ Cao Văn Lầu .
Dù không biết chắc chắn khoảng thời gian nhạc phương Tây du
nhập vào Việt Nam, nhưng có lẽ nó xưa như... thời những người Pháp đầu tiên vừa
đặt chân lên mảnh đất này?
Tuy nhiên, điều tôi muốn sẻ chia ở đây: người "mang nặng
đẻ đau" loại hình "Tân Cổ Giao Duyên" là nhạc sĩ đáng kính - Viễn
Châu . Ông hiện đang sống tại Sài Gòn như "Cây Đại Thụ Vọng Cổ" với
tuổi 90.
Lịch sử của bài "Tân Cổ Giao Duyên" đầu tiên hình
thành như Nhạc Sĩ Viễn Châu cho biết :
Lúc ấy, ở Sài Thành có hàng chục hãng đĩa ra đời để sản xuất
đĩa ca vọng cổ phục vụ cho giới mộ điệu. Các hãng đĩa trong những năm cuối
1950, đầu 1960 cạnh tranh với nhau gay gắt nên soạn giả thời đó rất uy tín, được
các hãng đĩa săn đón nồng nhiệt. Chính sự cạnh tranh đã khiến các soạn giả phải
suy nghĩ để tìm ra cái mới cho bài vọng cổ của mình. Sau nhiều đêm ấp ủ, bài
tân cổ giao duyên đầu tiên "Cô hàng chè tươi" của ông ra đời. Khi
viết bài tân cổ giao duyên, ông đã mạnh dạn rút ngắn phần vọng cổ (bỏ câu 3 và
4) để đưa tân nhạc vào, tạo thành bài tân cổ giao duyên hoàn chỉnh. Khi ông viết
xong bài tân cổ giao duyên Cô hàng chè tươi (khoảng năm 1960) thì vẫn chưa biết
đặt tên nó là gì. Mãi sau này, ông mới đặt tên cho nó là tân cổ giao duyên.
Không ngoa ngôn để nói: không có Nhạc Muồi không thể có Tân
Cổ Giao Duyên.
Có thể nói, loại hình Tân Cổ Giao Duyên đã làm nên một cuộc
"tân cách mạng" Cải Lương một lần nữa, sau cái tên "Cải
Lương" vốn có như Giáo Sư Trần Văn Khê đã phân tích trên nhiều diễn đàn từ
lâu.
Như trích dẫn nêu trên, nhạc phẩm "Cô Hàng Nước"
(thể loại tân nhạc, nhưng mang âm hưởng dân ca Quan Họ rất nhiều) của nhạc sĩ
Vũ Huyến (một nhạc sĩ người miền Bắc) đã tạo cảm hứng cho Nhạc Sĩ Viễn Châu
sáng tạo ra loại hình Vọng Cổ mới vào lúc bấy giờ. Dù có một số người trong giới
có phần thủ cựu chê bai khi nó ra đời, nhưng loại hình này nhanh chóng được chấp
nhận như là một sáng tạo hết sức độc đáo, tân kỳ đánh đúng vào nhu cầu người
thưởng thức vào lúc đó.
Trên tinh thần giao thoa văn hóa hai miền Bắc - Nam, văn hóa
Đông - Tây, "Cây Đại Thụ Vọng Cổ" Viễn Châu đã để lại trong lòng giới
chuyên môn và cả công chúng một nét son cho âm nhạc Việt Nam không phai nhạt
theo thời gian.
Hầu như không nhạc sĩ nào "dám" viết Tân Cổ Giao
Duyên với "Nhạc Kích Động", bởi nó quá "chỏi" nhau, đặc
biệt về tiết tấu, nó tỏ ra khó hòa hợp, nếu không nói, nó sẽ bị biến thành
"tân cổ vô duyên".
Dù loại hình Cải Lương hiện nay gần như bị suy vong như Chèo
Cổ hay Hát Bội, nhưng Tân Cổ Giao Duyên vẫn còn chỗ đứng trên sân khấu, dù rất
ít trong thời đại hiện nay. Điều đáng nói, loại hình này lại được gìn giữ và phổ
biến từ các trung tâm ca nhạc hải ngoại như: Thúy Nga, Asia, Vân Sơn trong các
kỳ đại nhạc hội, chứ nó không rộng rãi ngay tại Sài Gòn .
Cải Lương chỉ có vài chục bài bản quanh đi quẩn lại, người
soạn lời cứ thế mà theo để đặt lời mới. Đó phải chăng là một trong những hạn chế
lớn của Cải Lương làm cho khán giả nhàm chán? Nhịp điệu có phần lê thê, chậm buồn
và phần lớn bài bản nghe não nuột, làm cho Cải Lương có lẽ như là đặc trưng để
phản ánh và phù hợp với nền văn hóa nông nghiệp lạc hậu?
Cải Lương đứng trước nguy cơ "diệt vong", có lẽ vì
không còn đáp ứng nhu cầu hiện nay, đặc biệt giới trẻ. Nó chắc rồi sẽ chịu
chung số phận với Chèo Cổ, Hát Bội cũng như Kinh Kịch của Trung Quốc. Có chăng,
nó sẽ tồn tại ở dạng "bảo tồn" như là một nét văn hóa truyền thống để
giới thiệu với nước ngoài về một thời hoàng kim trăm năm của nó?!
Nhắc đến Cải Lương không thể không nhắc đến những giọng ca một
thời, vừa sang trọng mà nồng nàn, vừa ấm áp lại giản dị: Phùng Há, Thành Được, Hữu
Phước, Út Trà Ôn, Thanh Sang, Mỹ Châu, Thanh Nga, Phượng Liên, Ngọc Giàu v.v...
Đa số những nghệ sĩ tên tuổi thời bấy giờ, do nhiều yếu tố,
đặc biệt do xuất thân từ các vùng miền Tây Nam Bộ khi xưa với gia cảnh khốn
khó, làm cho họ không có được một đời sống học hành tới nơi tới chốn như nhiều
người cùng thời bấy giờ. Không biết quá khứ đó có trở thành "phiên bản"
như một "cô thôn nữ", dù đẹp mặn mà, nhưng thiếu sự "kiêu
sa", "đài các" đối với những nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ tự cho rằng
mình "sang"... "như tây"?
Lực lượng nghệ sĩ Cải Lương kế thừa ngày càng vơi dần và hụt
hẫng nghiêm trọng, không còn gì cứu vớt nổi. Từ thanh cho đến sắc, từ lương tâm
nghề nghiệp cho đến say mê cống hiến, cứ ngày càng rơi rụng và nhạt nhòa. Hiện
nay, một khi giới trẻ có giọng hát như các "tiền bối" một thời, chắc
chắn họ chẳng bao giờ "đầu quân" vào... Cải Lương, bởi nó đồng nghĩa
đi vào ngõ cụt cho tương lai.
Đó là quy luật không tránh khỏi, khi gắn Cải Lương với vấn đề
tiến hóa xã hội và hội nhập quốc tế ngày nay.
Một số người, cả dân trong giới "chơi" nhạc, đặc
biệt dạo sau này trong nước (những năm 1990 trở lại đây) có vẻ có thành kiến và
xem rẻ Nhạc Muồi? Nói đến Nhạc Muồi đối với bộ phận này, nó có vẻ gần với sự
quê mùa, lạc hậu, nghèo hèn, thậm chí pha lẫn một chút "sự thương hại"
trong ánh nhìn của họ? Thấp thoáng sự hợm hĩnh, kiêu căng của thói "trưởng
giả học làm sang", khi họ không nghiên cứu thấu đáo để hiểu rằng: giáo dục
tử tế không có nghĩa được tính qua "bằng cấp", đặc biệt "bằng cấp"
của Liên Xô và các nước trong phe cộng sản của những năm còn mạnh cũng như vừa
sụp đổ?! Tôi không có ý coi thường người dân Liên Xô ngày xưa và các nước Đông
Âu, mà chỉ muốn lên án, vạch trần tác hại của chế độ cộng sản ảnh hưởng thế nào
đến lĩnh vực nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng.
Không ai dám viết Tân Cổ Giao Duyên bằng cách kết hợp Chèo Cổ
- Nhạc Muồi hay Hát Bội - Nhạc Muồi và cũng không thể gắn Quan Họ Bắc Ninh hay
Ca Trù với Nhạc Muồi. Do đó, có thể nói Nhạc Muồi là sản phẩm độc đáo của miền
Nam (không có nghĩa nhạc sĩ và ca sĩ người Bắc không viết và ca được, thậm chí
họ viết và ca rất... muồi là đằng khác). Ở đây ý nói, Nhạc Muồi là "đặc sản"
có một không hai của Việt Nam, sản sinh từ cái nôi miền Nam.
Có một số nghệ sĩ hát Tân Cổ Giao Duyên bằng giọng Huế (cặp
Minh Vương - Vân Khánh với bài "Chiếc nón bài thơ"), tạm chấp nhận được,
nhưng nó không phổ biến rộng rãi bằng giọng thuần Nam Bộ.
Đoàn cải lương Chuông Vàng của miền Bắc, tôi không nghiên cứu
thành lập từ khi nào, nhưng có dạo những năm đầu sau 1975, có nghệ sĩ hát Vọng
Cổ bằng giọng thuần Bắc, thật khó làm người nghe chấp nhận, do đó nó mau chóng
bị bỏ qua. Sau này có nghệ sĩ Thanh Thanh Hiền ca Vọng Cổ bằng giọng Nam Bộ có
thể tạm chấp nhận được, nhưng giọng vẫn khá "cứng", không thể che giấu
với đôi tai người Nam Bộ. Thanh Thanh Hiền so với các nghệ sĩ người miền Bắc
như: Bích Sơn - giải Thanh Tâm 1960 , Thanh Vy (nghệ sĩ miền Bắc hát Cải
Lương sau 1975), vẫn còn khoảng cách lớn về cảm thụ Vọng Cổ để hát mềm mại, uyển
chuyển hơn.
Trong vở tuồng nổi tiếng Tô Ánh Nguyệt, khi tranh luận giữa
hai người cha về "tống cựu nghinh tân" và "thủ cựu bài
tân", có câu: Nước biển dùng làm muối, nước ngọt dùng trồng lúa, còn nước
lợ thì người ta không biết làm gì.
Học hỏi là tính tốt, nhưng trong nghệ thuật nói chung cũng
như âm nhạc nói riêng, nó có những khắc nghiệt riêng, nếu không hiểu ra thì dễ
bị mang tiếng đua đòi, đèo bồng, đặc biệt "dây thanh đới" là của trời
cho, đúng nghĩa. Không ai giống ai và không gì có thể thay thế dây thanh đới giữa
người này với người khác, bất chấp có rèn luyện bao nhiêu năm, có cố bắt chước
cỡ nào đi chăng nữa.
Tạo hóa vẫn giữ độc quyền về sáng tạo những điều con người
không lý giải được, khi thượng đế ban cho người này dây thanh đới kiểu này và
phát cho người khác dây thanh đới kiểu khác. Do đó, có người trở thành ca sĩ
chuyên về Rock, Jazz, có người chuyên về Nhạc Muồi v.v... có người hát "được"
nhưng không bao giờ trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Tất nhiên để trở thành ca sĩ
chuyên nghiệp, không chỉ có một dây thanh đới phù hợp mà còn nhiều yếu tố khác,
trong đó không thiếu điều mà người ta hay gọi là "Nghiệp".
Những thú vị của Nhạc Muồi.
Có thể nói Nhạc Muồi là nỗi cứu rỗi cho Vọng Cổ (bài bản
chính của Cải Lương). Hơn 50 năm trước, nếu Nhạc Sĩ Viễn Châu không sáng tạo
"Tân Cổ Giao Duyên", có lẽ Cải Lương nói chung và Vọng Cổ nói riêng
đã nói lời "chia tay" trên diện rộng với khán giả sớm hơn?
Nhạc Muồi khá gần gũi với Cải Lương bởi giai điệu, tiết tấu
(nghĩa là đa số bài hát chậm, buồn). Nó cũng chỉ vài điệu nhạc, chủ yếu là
Boléro, Rumba, hiếm "cao trào" trong bài hát, với "tone thứ"
làm chủ đạo. Đôi khi người ta bắt gặp những điệu chachacha, tango được
"đánh" lả lơi một chút cũng tạo ra một bản Nhạc Muồi rất muồi mẩn và
mê ly, làm đắm say lòng người.
Hình như những bài "tone trưởng" khó làm bật lên
cái đặc trưng của "Nhạc Muồi"?
Ai đó đã nói: Một bản nhạc buồn chưa chắc đã đi vào lòng người,
nhưng một bản nhạc đi vào lòng người thường là một bản nhạc buồn. Điều này có lẽ
đúng cho không chỉ riêng Nhạc Muồi.
Việt Nam, cho đến ngày nay vẫn chưa thoát khỏi nỗi buồn. Một
nỗi buồn lớn lao của cả dân tộc dưới ách cai trị bạo ngược cùng chính sách ngu
dân của cộng sản!
"Nhạc buồn" trở thành nơi cho "Nhạc Muồi"
thỏa sức vẫy vùng sáng tạo.
Nét đặc biệt thú vị của "Nhạc Muồi" không hẳn ở điệu
nhạc mà phần cốt lõi chính là lời hát mang lại cho khán giả. Lời trong các bản
Nhạc Muồi bảng lảng, bồng bềnh mà lại thiết tha, sâu lắng xen lẫn nỗi bùi ngùi,
tiếc nuối; bất chấp đó là một nỗi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ bạn, nhớ tình nhân đã bỏ
ra đi, nhớ về tuổi hoa niên hay nhớ người yêu của lính hoặc hoài vọng về quê cũ
- nơi ta lớn lên và buộc phải rứt ruột chia lìa, cùng nhiều tâm trạng khác. Một
số người nhìn Nhạc Muồi dưới góc độ "ủy mị", "bi quan", thiếu
tinh thần..."lạc quan cách mạng" (!) có lẽ từ đó tạo ra "phong
trào" đả kích và giết chết nhạc vàng nói chung và Nhạc Muồi nói riêng, sau
ngày "giải phóng"?
Viết "Nhạc Muồi", về phần nhạc không phải quá khó,
nhưng phần lời đòi hỏi người soạn nhạc phải vô cùng tinh tế và phải đong đầy cảm
xúc chân thật. Điều này liên quan đến văn chương rất lớn.
Nhạc Muồi và văn chương.
Văn chương trong Nhạc Muồi, ngoài năng khiếu trời cho, nó
đòi hỏi một sự trải nghiệm, gọt giũa, chắt lọc cùng tính nhạy bén của một tâm hồn
nhân ái để sao cho hòa quyện phần lời thật "ăn ý" với phần nhạc. Người
nhạc sĩ chuyên sáng tác dòng nhạc này, tuyệt đại đa số, họ là những người
"văn hay chữ tốt".
Nói đến văn chương là nói đến giáo dục. Ở đây, chúng ta đề cập
đến nền giáo dục khai phóng và nhân bản. Một nền giáo dục như thế mới có tự do
làm nền cho mọi sáng tác (sáng tạo) thăng hoa. Vậy là, "đụng đến"
giáo dục "nhồi sọ" mang tính khuôn mẫu, công thức, đặt nặng về kỹ thuật
viết và đạo đức giả khi còn ngồi trên ghế nhà trường từ những năm đầu trẻ làm
quen với văn chương.
Khái niệm "văn mẫu" - một khái niệm quái dị và phi
nhân tính - mà lớp trẻ sau này hứng chịu gây tác hại to lớn; không chỉ về việc
hình thành nhân cách, đạo đức mà còn tác động lên cả lĩnh vực âm nhạc (không chỉ
Nhạc Muồi) mà chúng ta đang bàn luận ở đây. Văn chương ngày nay hầu như không
còn là nơi nuôi dưỡng, vun bồi tâm hồn hiền lương và trung thực cho thế hệ trẻ.
Đó là điều vô cùng đau xót cho Việt Nam hiện nay!
Có vẻ người cộng sản chưa bao giờ nhận thấy họ tàn phá - mà
tôi gọi (nhẹ nhất) là "ác hồn nhiên" - văn chương một cách...
"vô tư" từ (ít nhất) 38 năm qua.
Giới cầm quyền cộng sản hình như chưa bao giờ chịu chiêm
nghiệm, đúc kết và rút ra những bài học cay đắng khi nhiều năm sau "giải
phóng" họ đã xem rất nhẹ vai trò văn chương mà chỉ chú tâm và "lèo
lái" nó đi vào "con đường trụy lạc" mang tên "chính trị".
Cao hơn, cai thứ "văn chương" sau "giải
phóng" đã lần hồi làm tha hóa tâm hồn người Việt và nô dịch cho "lý
tưởng cộng sản" - một lý tưởng không tưởng, mơ hồ, phi nhân tính.
Thế hệ trẻ ra đời, lớn lên, tiếp nối "tiền bối" cộng
sản bằng những tâm hồn xơ cứng, khô cằn, đua chen, đố kỵ, giành giựt chỗ đứng
trong "làng" và họ đầy hận thù, nhỏ nhen, bẩn chật thông qua nhiều
"nhà văn", "nhà thơ", nhiều "nhạc sĩ", "ca
sĩ", "diễn viên", "đạo diễn" sống trong sự "nuôi
nấng" và "chăm sóc" từ "vòng tay" "đảng ta"
(!). Lớp người này không thể nào là "hạt từ tâm" như Trịnh Công Sơn
đã viết.
Nhạc Muồi góp một phần không nhỏ cho "hạt mầm từ
tâm" đâm chồi vươn lên đón ánh dương ban mai buổi sớm. Nhẹ nhàng và thanh
thoát. Thánh thiện mà giản dị như "Chiếc Áo Bà Ba", như một "Cây
Cầu Dừa" và đôi khi như" Lối Thu Xưa" cho tâm hồn bảng lảng để
hoài niệm, trầm tư và cũng để biết ăn năn là gì sau những việc đã xảy ra.
Giá như giới cầm quyền hiểu được tầm quan trọng của văn
chương ảnh hưởng không chỉ trong âm nhạc mà nó còn tác động mãnh liệt đến thế hệ
trẻ hiện nay ra sao thông qua cái gọi là... "văn mẫu" (!) Thật khốn
khổ cho nhi đồng, đến cả thanh thiếu niên ngày nay với vị "cứu tinh"
- "văn mẫu" đối với nền văn học nước Việt (!).
Không thể có một áng văn hay, không thể có một lời nhạc bay
bổng mà thiếu tự do trong đó. Nhiều độc giả chắc không khỏi thở dài khi chúng
ta cùng nhắc thêm... "tính định hướng" trong viết văn, viết nhạc. Đó
là sự thật, chí ít 38 năm qua, kể từ ngày "đảng đã cho em cuộc đời mới",
"đảng chỉ cho em đường đi tới" (!) .
Chính thể cộng sản đã bóp nát tâm hồn và tính sáng tạo của
tuổi trẻ ngay từ những bài học đầu đời, trước khi họ trở thành một nhà soạn nhạc
tự do đúng nghĩa của nó. Trong số các nhạc sĩ, ca sĩ hiện nay, quá khó để tìm
ra một người nghệ sĩ của nhân dân, chứ không phải loại "nghệ sĩ nhân
dân" của tư tưởng bố thí!
Những dẫn giải nói trên, có phải góp thêm để lý giải tại sao
hiếm có nhạc sĩ trẻ ngày nay viết lên những lời nhạc đậm đà chất thơ, đẹp như một
bức tranh, so với ngày trước?
Bất giác tôi nghĩ, Quốc Trung, Huy Tuấn, và một số nhạc sĩ
trẻ có tiếng hiện nay có thể nào viết ra một bản Nhạc Muồi không? Hoàn toàn được,
nhưng chắc chắn nó nặng về kỹ thuật và khô... như ngói, tựa những giọng hát thời
thượng hiện nay mà Nhạc Sĩ Nguyễn Ánh9 đã phê bình.
Nguyễn Ngọc Già - danlambaovn.blogspot.com