Một nét tài hoa
trong sáng tạo nghệ thuật biểu hiện ở chỗ người nghệ sĩ biết vận dụng kiến thức
của nhiều lĩnh vực vào tác phẩm. Trịnh Công Sơn là một nghệ sĩ tài hoa, công
chúng đã thừa nhận điều đó. Chúng ta thử nhặt một cánh hoa trong gia-tài-hoa của
anh và xem Trịnh đã thấu hiểu vật lí đến thế nào.
1. Ba định luật
cơ học cổ điển
Nhà vật lí người
Anh Isaac Newton đã đặt nền móng cho cơ học cổ điển bằng ba định luật gắn liền
với tên tuổi của ông. Hãy lướt đi trên những ca từ của Trịnh để thưởng ngoạn cuộc
gặp gỡ thân thiện giữa Trịnh Công Sơn và Newton.
Định Luật I
Newton phát biểu rằng: Một vật đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều sẽ giữ
nguyên trạng thái đó nếu không có ngoại lực tác dụng lên vật.
Con người đặt
giữa cuộc sống nhân loại sẽ rất nhỏ bé, hệt một chất điểm, và ta coi con người
là một vật trong tổng thể cấu tạo vũ trụ. Vận dụng định luật trên cho một vật hữu
cơ (con người), nếu môi trường sống yên bình đến tuyệt đối, ta sẽ tồn tại (đứng
yên) hoặc đi qua cõi đời (chuyển động thẳng đều) một cách rất bình lặng mà
không hề vấn vương gì. Ta bắt gặp ý niệm ấy trong câu hát “Đường thật lặng yên
lòng không gì nhớ” (Bên đời hiu quạnh). Trịnh Công Sơn đã ghé tai thì thầm với
ta rằng, nếu có một cuộc sống quá thanh bình cũng chưa phải là hay, vì khi đó
ta không thể biết đến cái “đau” vốn có của đời sống, và như thế là ta không thể
chia sẻ được với đồng loại. Bởi vậy nên hãy hoà mình sống ở đời mà đừng tìm
cách lánh, đừng làm lơ với cuộc sống đang hiện hữu quanh bạn. Khi thức tỉnh được
điều đó ta mới “giật mình nhìn quanh, ồ phố xa lạ”. Hoá ra là thế, hoá ra là
bao lâu nay ta đã ngủ mê trên cái êm đềm nên mụ mị đi. Nay ta tác dụng một lực
để tự giật mình, mới hay mình đã tới một nơi khác rất mới mẻ, lạ lẫm. Đấy cũng
là một cách khám phá cuộc sống. Phải chăng vì Trịnh Công Sơn đã thấu đạt điều
đó nên anh hoà mình lặng lẽ giữa đời, đau cùng thân phận con người, khát khao
cùng ước nguyện đôi lứa… tất cả những thứ ấy chính là lực tác dụng để đưa cảm
xúc của anh đến những miền đất lạ mà lấy nhạc về cho đời.
Ta càng sống,
càng trải nghiệm bao nhiêu thì càng nhanh già bấy nhiêu. Đó là tín hiệu lão hoá
sinh học, cũng là một cách hiểu khác của định luật II Newton: Biến thiên động
lượng của vật tỉ lệ thuận với độ lớn lực ngoài tác dụng. Và Trịnh Công Sơn, cái
anh chàng tài hoa ấy đã quét trí tuệ qua sinh học, qua vật lí rồi viết: “tóc úa
là nhờ những tháng âu lo” (Bay đi thầm lặng).
Chính những
tháng ngày ngồi âu lo, Trịnh đã thấu tận nỗi sầu thế nhân và thốt lên như một
triết gia của tự nhiên: “Biển đánh bờ xôn xao bờ đánh biển” (Biển nghìn thu ở lại).
Đứng trước biển, dẫu là nhà thơ hay người thường cũng đều nôn nao cảm xúc tựa
như sóng không vỗ vào bờ mà đang vỗ vào lòng ta. Thế nhưng mấy ai hiểu tới được
cái thế chí tương quan giữa biển và bờ? Nếu như Fritjof Capra ngồi trước biển
và nhận ra những con sóng cùng bờ cát đang tham gia vào một điệu múa Shiva
trong Ấn Độ giáo để rồi viết cuốn sách Đạo của Vật lí, thì Trịnh Công Sơn lại
quan sát tương quan hai chiều: “biển đánh bờ” tất dĩ sẽ có “bờ đánh biển” để viết
nhạc. Tương quan hai chiều này toán học gọi là “song ánh”, và vật lí học xếp nó
vào Định Luật III Newton: Nếu A tác dụng vào B một lực thì ngay lập tức B cũng
trở lại tác dụng A một lực tương ứng. Trịnh Công Sơn đã biến một nguyên tắc vật
lí khô cứng thành một câu hát mềm như sóng biển! Tuy nhiên, một người nghệ sĩ
khi thấu đạt lẽ tự nhiên rồi thì họ không dừng lại ở việc mô tả nó, mà còn phải
đưa ra suy nghĩ riêng của mình. Cũng như thế, Trịnh sau khi nhận ra cái luật
“có đi tất có lại” thì chàng van lơn: “Đừng đánh nhau ơi biển sẽ tàn phai”. Một
câu hát đong đầy giá trị nhân văn. Trịnh đã lấy lòng từ bi của một người Phật tử
và phóng chiếu qua cổ tích (nơi mà mọi thứ đều có linh hồn), để rồi chàng
thương cả những vật vô tri như sóng hay cát. Gia tài âm nhạc của Trịnh Công Sơn
có một phần lớn nhạc phản chiến, câu hát trên là một tinh thần phản chiến của
Trịnh. Nhạc sĩ khuyên người ta đừng có đánh nhau nữa. Nhà Phật nói đời là biển
khổ. Thế đấy, biển vốn đã mênh mang nỗi khổ rồi sao còn cứ đánh nhau làm gì cho
thêm tàn phai?
2. Điểm chung
nguyên tử
Sách Sáng Thế
Ký nói chuyện Chúa nặn ra vạn vật, nhà Phật lại cho rằng muôn loài được tạo ra
bởi sự kết hợp các duyên lành (giả hợp), còn Vật lí học thì xác định mọi thứ đều
cấu thành từ nguyên tử. Trịnh Công Sơn đã bay giữa thần học, triết học, khoa học
để nhận ra rằng tất cả đều có một điểm chung, bạn cũng là ta, người tình cũng
là ta mà thôi: “Tôi là em và em cũng là tôi” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng). Ở lĩnh vực
thi ca, nhà thơ Mỹ Walt Whitman trong tập thơ Lá Cỏ đã từng viết: “Tôi ca tụng
mình, tôi hát về mình/ Và cái tôi nhận về thì các bạn cũng nhận về/ Vì mỗi
nguyên tử thuộc về tôi, cũng thuộc về các bạn đấy thôi” (Hát về chính mình).
Người ta nói những tư tưởng lớn thường gặp nhau, quả không sai! Và, cũng như
Walt Whitman, Trịnh Công Sơn đã hướng sáng tác của mình đến việc xây dựng một
thế giới đại đồng, muôn loài muôn vật đều chung một chủng tử (là nguyên tử), vì
vậy mà “hãy yêu nhau đi”. Tình yêu trong nhiều ca khúc của Trịnh là tình thương
rộng lớn giữa người với người, giữa người với vật: “Hãy yêu nhau cho gạch đá có
tin vui”. Nếu không nhận ra được điểm chung giữa con người và đất đá, làm sao
có thể viết được một câu hát bao dung đến thế?!
Luận điểm C.
Mac cho rằng, con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Hơn thế, con người
buộc phải gắn liền với lịch sử dân tộc, với cội nguồn văn hoá, và với xuất phát
điểm nhân loại – chính là nguyên tử. Bởi vậy nên ta hiểu được Trịnh luôn nhìn
thấy thấp thoáng bóng người quen ở giữa những đám người lạ:”Có những nghìn năm
xưa, hoá thân em bây giờ. Nên tôi vẫn nhìn thấy em, giữa đám đông xa lạ. Vì em
như chim trắng, giữa trống đồng bước ra” (Em đến từ nghìn xưa). Triết gia Đức
Nietzsche đề xuất khái niệm “siêu nhân” để động viên con người hãy vượt qua con
người, còn Trịnh Công Sơn trong ca khúc đã thể hiện ý niệm “cố nhân” nhằm mong
muốn con người tìm lại con người trong nhau: “Tìm em tôi tìm… bỗng tôi thấy em
dưới chân cội nguồn” (Đoá hoa vô thường). Và chắc chắn Trịnh có lý, bởi vì tất
cả chúng ta đều hình thành từ đơn vị cấu trúc cơ bản là nguyên tử.
Từ cái điểm
chung ấy, đối với Trịnh thì mọi người, mọi vật ta đã gặp sẽ mãi mãi luôn bên ta
chứ không thể mất đi, vậy nên “vẫn thấy bên đời còn có em” hay “vẫn thấy em cười
đùa đó đây” (Vẫn có em bên đời). Quả đúng là không có gì tự nhiên sinh ra, cũng
không có gì tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác mà
thôi. Trịnh biết thế nên dù cho em đã ra đi nhưng hình ảnh em vẫn còn ở lại và
hoá vào thiên nhiên gần gũi, “tấm lòng em như lá kia còn xanh”. Bài hát như một
lời động viên, gửi gắm niềm lạc quan cho những ai đang mất niềm tin vào tình
yêu, cuộc sống. Trịnh Công Sơn là hoàng tử sầu muộn đã gập lưng cõng thập tự
giá để cho Đức tin không tàn úa.
3. Hiệu ứng ánh
sáng trắng
Thuyết ánh sáng
cho rằng ánh nắng mặt trời là ánh sáng trắng. Nghĩa là nắng, về bản chất tự
nhiên, có màu trắng. Điều đó được Trịnh vận dụng và viết nên ca khúc Hạ Trắng.
Mùa hạ là mùa đượm nắng nhất trong năm. Và cái buổi chiều mùa hạ mà Trịnh đang
ngồi ngắm ấy chính là lúc con nắng khôi nguyên nhất, chưa bị phân hoá, nắng phủ
màu trắng lên muôn loài, trong cơn mê màu nắng cũng bội kết thành những đoá hoa
trắng: “Gọi nắng, cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay”. Màu trắng còn để biểu
trưng cho lòng thuỷ chung gắn kết, đấy chính là tình yêu vĩnh cửu giữa hai ông
bà già mà Trịnh Công Sơn đã lấy làm cảm hứng cho ca khúc này.
Ánh sáng trắng
khi bị tán xạ qua lăng kính sẽ cho ra bảy màu: đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm,
tím. Trịnh đã lấy cuộc đời làm phòng thí nghiệm, mượn đôi mắt – cửa sổ tâm hồn
– làm lăng kính để chiết ra những sắc màu lung linh. Đó là màu màu hồng trong
bài Như cánh vạc bay: “Nắng có hồng bằng đôi môi em”. Màu vàng từ thiện: “Nắng
vàng ủng hộ cho Bống căn nhà” (Bống không là Bống). Màu lục trong sắc xanh thực
vật được nắng khơi dậy: “Cỏ cây chợt lên màu nắng” (Nắng thuỷ tinh). Màu tím vội
vàng: “Có khi nắng khuya chưa lên, mà một loài hoa chợt tím” (Chiều một mình
qua phố)…
Sự anh minh trí
tuệ kết hợp với độ nhạy bén tâm hồn đã giúp Trịnh Công Sơn không chỉ nhìn mà
còn nghe được cả ánh sáng. Xưa nay ánh sáng chỉ tác động vào mắt chứ làm sao
tác động vào tai mà nghe được? Thế mà Trịnh bảo nắng có âm thanh khiến ta nghe
được cơ đấy! Này nhé: “Em nghe sầu lên trong nắng” (Nhìn những mùa thu đi). Âm
thanh của nắng là siêu thanh, đến nỗi vật vô tri cũng thấu được: “có con đường
nằm nghe nắng mưa”; rồi thì nắng chui được vào âm thanh: “có chút nắng trong tiếng
gà trưa” (Em còn nhớ hay em đã quên). Phải chăng vì nắng mang những hiệu ứng âm
thanh, cả phát lẫn thu, nên Trịnh mới cất lời “gọi nắng”? Thật ra, Trịnh Công
Sơn đã đặt điểm nhìn trên hai trục chiếu: quang học vật lí và triết thuyết Phật
giáo. Trong quan điểm của nhà Phật thì ánh sáng và âm thanh là một, “quang hữu
âm, âm hữu quang, vi diệu pháp”. Ví như Phật A Di Đà được kết tinh từ âm thanh
(lời kêu ai oán của thế gian), nhưng ngài lại có tên khác là Vô Lượng Quang (muôn
vàn ánh sáng). Hay Bồ tát Quan Thế Âm là đấng nhìn được âm thanh nên mới có tên
như vậy.
Trịnh Công Sơn
– phù thuỷ ngôn ngữ - đã làm phép cho nắng
bật lên bảy sắc, bảy sắc ấy quay trở lại dâng tặng cho anh bảy nốt nhạc. Và thế
là Trịnh đã có những bản nhạc quy rọi hiệu ứng ánh sáng với đầy đủ sắc lẫn âm.
4. Tính tương đối
về hệ không gian
Trong không
gian, chuyển động của vật được quan sát thông qua một hệ quy chiếu. Nguyên tắc
vật lí ấy được ví von dễ hiểu như sau: chẳng hạn khi ta đi tàu, nhìn qua cửa sổ,
ta sẽ có cảm giác tàu đứng yên còn cảnh vật xung quanh thì đang chuyển động.
Hay khi đứng bên bờ sông trong một đêm rằm, ta nhìn thấy dòng sông chảy trôi,
bóng trăng đứng yên trong nước. Nhưng nếu ta ngồi trên đò xuôi dòng thì sẽ thấy
con sông đứng yên, còn trăng thì đang chạy. Trịnh Công Sơn đã vận dụng nguyên tắc
tương đối này vào câu hát: “con sông là quán trọ, và trăng – tên lãng du” (Biết
đâu nguồn cội). Mới nghe qua câu hát, cứ ngỡ Trịnh… viết sai! Ơ hay, dòng sông
thì phải trôi chứ sao lại chồn chân một chỗ như quán trọ? Con trăng cũng cố định
chứ sao lại chạy lung tung được? Trịnh quên điều ấy chăng? Không, Trịnh Công
Sơn là nhà bác học không đãng trí (dù anh có bài hát Tình ca người mất trí),
cái ngây ngô ấy thực chất là nét hồn nhiên của sự thông minh vừa chín tới. Nếu
có một lần “em đi qua chuyến đò” thì em sẽ hiểu được câu hát của Trịnh hoàn
toàn có cơ sở vật lí.
Hạnh phúc có thể
coi như một loại vật chất đặc biệt, và
cũng mang tính chất tương đối của trạng thái gắn liền với không gian. Hạnh phúc
vốn ở trong tay ta chứ có đâu xa mà luẩn quẩn đi tìm. Ai cũng biết thế nhưng
không mấy ai chịu ngồi yên cầm nắm hạnh phúc đâu. Tất cả mọi vật đều được Tạo
hoá nặn ra, riêng con người thì tự làm ra mình bằng cách tiến hoá từ vượn, vậy
nên con người luôn có ý thức đi tìm một điều gì đó để hoàn thiện hơn chứ không
dễ dàng chấp nhận. Hạnh phúc cũng thế, con người không chơi bài “ăn xổi” với
nó, thế mới có chuyện vợ chồng mà không cãi nhau thì không hạnh phúc (!) Con
người lại hay chọn cái dễ làm trước, hạnh phúc dễ tìm thấy nhất là trong tình
yêu, tức hạnh phúc lứa đôi – gọi là tình. Cái tình hạnh phúc ấy nó cũng tồn tại
tương đối, nghĩa là khó xác định nó ở đâu: “Tình không xa nhưng không thật gần”
(Như một lời chia tay). Một câu nhạc tưởng chừng như… vô duyên, mông lung lại rất
hữu cớ, hiện thực. Thông qua đó, Trịnh Công Sơn khuyên người ta đừng có chạy đuổi
theo cái tình xa tình gần chi nữa, đừng có “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”,
hãy biết nắm bắt cái đang diễn ra ở ngay đây, như anh từng nói: Hãy sống hết
mình trong mỗi sát-na hiện tại!
5. Mức vững
vàng
Vật lí phát biểu
rằng: Mức vững vàng của một vật phụ thuộc vào vị trí trọng tâm (độ cao) và diện
tích mặt chân đế. Muốn tăng mức vững vàng của vật thì hãy hạ thấp trọng tâm xuống.
Nguyên tắc này được áp dụng cho thế Trung bình tấn trong võ thuật, tức là nếu
ta rùn chân xuống thấp thì mức vững vàng cao hơn khi đứng thẳng người. Trọng
tâm, hiểu theo nghĩa thoáng, nó chính là cái “tôi” của mỗi người. Trịnh Công
Sơn đã thông qua nguyên tắc vật lí ấy để chiêm nghiệm lẽ đời về cái tôi: “Nhìn
tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp” (Con mắt còn lại). Trịnh biết rằng khi mình được
người đời xưng tụng quá, nâng lên cao quá thì cũng chưa phải hay, bởi cái sự
thăng vị ấy nó mong manh lắm! Càng lên cao mức vững vàng càng giảm. Anh lại nhận
ra cuộc đời cứ nghiêng như núi đang chờ đón bước chân ta, “đồi núi nghiêng
nghiêng đợi chờ” (Biển nhớ). Nên chi anh tự nhủ hãy cẩn thận trong mỗi bước lần
chân: “Đường lên cao bước chân nhè nhẹ” (Có nghe đời nghiêng). Dường như Trịnh
Công Sơn đã lường trước được sự nổi tiếng của mình, và anh chấp nhận vầng hào
quang mà đời khoác lên vai, anh nhận thứ ánh sáng ấy để sống tỉnh thức chứ
không phải để kiêu hãnh. Trịnh Công Sơn đã đi qua cuộc đời với sự cẩn trọng, nhờ
biết hạ thấp cái tôi nên anh có một vị thế vững vàng giữa muôn vàn tấm lòng người
yêu mến.
Hoàng Phủ Ngọc
Tường từng nhận xét: “Trịnh Công Sơn là người chăm chú cúi xuống hiện hữu”.
Đúng thế, Trịnh đã quan sát sự vật, ngắm nhìn cuộc sống như một nhà vật lí đầy
mỹ cảm. Hay nói cách khác, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ có thiên căn khoa học.
Hoàng Công
Danh(nguồn:gnuhel.wordpress.com)