Showing posts with label BÀI VIẾT CŨ NHẤT. Show all posts
Showing posts with label BÀI VIẾT CŨ NHẤT. Show all posts

4.9.13

”CÁI BÁNH VẼ”&”ÔNG NGHỊ GIẤY”

Hiện nay,trên cả nước ta có 3 hội chuyên ngành lớn về âm nhạc:Hội nhạc sĩ Việt Nam,Hội âm nhạc Hà Nội và Hội âm nhạc TpHCM.Ngoài ra, ở các tỉnh thành khác thì có các chi hội âm nhạc nằm trong Hội văn nghệ của các tỉnh thành(bao gồm nhiều chi hội nghệ thuật khác).Trong 3 Hội chuyên ngành lớn kể trên đều có tiểu ban phê bình lý luận(TBPBLL),cho thấy các hội đều thấy rõ tầm quan trọng của PBLLAN trong việc thúc đẩy và kích thích sáng tác phát triển tốt hơn.

Tuy nhiên đó cũng chỉ là trên mặt văn bản trong việc đề ra chức trách và phân công cụ thể cho tiểu ban này.Trên thực tế,khi nhìn vào dòng chảy sôi nổi và những biến động của sáng tác ca khúc đương đại thì vai trò của các TBPBLL này hết sức mờ phai,nặng tính hình thức và đầy sức ì thụ động.Thậm chí có khi làm kẻ ngoại cuộc.(Trong đó vị trí của TBLLPB của Hội âm nhạc TpHCM quan trọng nhất vì nó nằm ở trung tâm âm nhạc lớn nhất nước.)

NHỮNG KỶ LỤC CỦA TÂN NHẠC



Tân nhạc ra đời cách đây gần 70 năm . Khi đi ngược lại dòng lịch sử đó qua nhiều bài báo , sách vở , tư liệu cũng như thông qua một số nhạc sĩ lão thành còn sống , tôi đã lượm lặt được rất nhiều điều kỳ thú . Chẳng hạn tôi đã tập họp được một số kỷ lục của Tân nhạc để gửi đến các bạn yêu nhạc Việt hầu giải khuây và biết đâu sẽ chiêm nghiệm ra một điều gì đó hay hay…

-Gịong ca nam cao ( ténor ) đầu tiên và cũng là nhạc sĩ Tân nhạc lần đầu tiên có bài hát được công bố là Nguyễn Văn Tuyên . Bài hát Bướm hoa ( thơ : Nguyễn Văn Cổn ) của ông được đăng trên tờ Ngày Nay số 122 ngày 7/8/1938 .Sau đây là bản in của nó trên tờ báo này.
     
-Tờ báo chuyên về âm nhạc đầu tiên của Việt Nam là tờ Nhạc Việt . Nó ra đời vào năm 1948.

-Các ca sĩ đầu tiên hát nhạc Tây lời ta là Kim Thoa , Ái Liên vào khoảng năm 1934 với các bài đặt lời mở đầu cho phong trào nhạc Tân nhạc sơ khai của Tư Chơi ( Huỳnh Hữu Trung ) trên sân khấu cải lương.

-Nguyễn Thiện với tác phẩm nổi tiếng Giáo đường im bóng viết năm 17 tuổi là nhạc sĩ có bài hát đầu tay viết ở tuổi trẻ nhất . ( Ông cũng là người lấy người trong mộng của nhạc sĩ  Lê Thương làm phu nhân . Chính mối tình thầm lặng này đã khiến Lê Thương sáng tác bài Nàng Hà Tiên nổi tiếng lúc bấy giờ.



-Trước đây vài năm có nổi lên phong trào viết lời bài hát Việt bằng ngoại ngữ ( tiếng Anh ) . Nhưng chính nhạc sĩ Dương Thiệu Tước cách đây hơn 60 năm đã tiên phong đưa ra những bài nhạc Việt với lời ngoại quốc  ( tiếng Pháp ) . Đó là các bài Joie d’aimer ( Thú yêu thương ) Souvenance ( Hồi niệm )…với phần lời do Thẩm Bích ( anh của nhạc sĩ Thẩm Oánh ) viết.

-Văn cao là người trước nhất sáng tác trường ca và do đó được coi là cha đẻ thể loại trường ca của Tân nhạc . Tác  phẩm Sông Lô của ông viết vào năm 1947 là một trường ca kinh điển của Việt Nam.

-Nhạc sĩ yểu mệnh nhất là Đặng Thế Phong . Ông mất khi mới 24 tuổi .Đặng Thế Phong còn là người mở đầu cho dòng nhạc tình lãng mạn với bộ ba nổi tiếng : Đêm thu , Giọt mưa thu , Con thuyền không bến

-Ông vua nhạc Tango của Tân nhạc là nhạc sĩ Hoàng Trọng . Ông đã sáng tác hàng chục bài chỉ với một nhịp điệu của xứ sở Argentina . Hoàng Trọng cũng là một trong những người đầu tiên du nhập Tango vào Việt Nam với nhạc phẩm Tiếng đàn ai.

-Bạn từng biết đến hoặc đã đi nghe nhạc ở các phòng trà nổi tiếng như Tiếng tơ đồng , M&Tôi…nhưng bạn có biết phòng trà ca nhạc đầu tiên của Việt Nam xuất hiện bao giờ và ở đâu không ? Đó là vào năm 1946 ở đường Bờ Hồ , Hà Nội.

-Cũng tại Hà nội vào đầu thập niên 40 lần đầu tiên ở nước ta có khiêu vũ trường ( lúc đó gọi là nhà hàng khiêu vũ) do Cô Đốc Sao thành lập . Các vũ nữ lúc đó là các ả đào bỏ nghề ( vì ca trù đã hết mốt ) đi học nhảy đầm với vũ sư đầu tiên là Đỗ Đình Khang.



-Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát , người lớn tuổi nhất của Tân Nhạc cũng là cha đẻ của thể loại nhạc hành khúc và nhạc hài hước ( như Chờ đợi bình minh , Con Voi , Thằng Bờm , Con mèo mà trèo cây cau ) mà sau này các nhạc sĩ như Lưu Hữu Phước , Hùng Lân , Lê Thương…sẽ kế thừa và phát triển . Nguyễn Xuân Khoát còn là người đầu tiên phổ thơ với ngũ cung thuần tuý ( bài Hồn Xuân )

-Nhạc sĩ Hùng Lân là người khởi xướng cho nhạc thánh ca Việt với 11 tập nhạc mang tên Cung thánh . Sau này ông sẽ đi theo dòng hùng ca được gợi mở bởi Nguyễn Xuân Khoát để đóng góp cho nhạc Việt những bài nổi tiếng như Hè về , Khoẻ vì nước

-Việt Lang , Hoàng Phú ( tức là nhạc sĩ Tô Vũ ) Phạm Ngữ với các bài theo thứ tự như Tình quê hương , Ngày xưa , Nhớ quê hương là những người mở đầu cho dòng nhạc tình tự quê hương

-Nhạc sĩ viết nhạc kịch đầu tiên là Lưu Hữu Phước . Ông đã sáng tác Tục lụy chuyển thể từ vở kịch cùng tên của Khái Hưng dựa theo tác phẩm kịch thơ của Thế Lữ ( cũng cùng tên )

- Thương là người khai sinh cho thể loại truyện ca . Hầu hết các bài hát nổi tiếng của ông đều viết theo phong cách này : Nàng Hà Tiên , Trên sông Dương Tử và bất hủ nhất là Hòn Vọng phu.

-Người đầu tiên hát nhạc hài hước là Trần Văn Trạch ( em ruột GS Trần Văn Khê ). Ông là người lập nhóm ATV nổi tiếng một thời mà sau đó nhiều nhóm nhạc hài khác đã bắt chước. 
                                                               
-Vở ca kịch đầu tiên của VN là vở Tục Lụy, một sáng tác của Lưu Hữu Phước được viết vào năm 1943 dựa trên kịch thơ của Thế Lữ chuyển thể từ kịch của Khái Hưng.

-Ra khơi là nhạc cổ điển không lời đầu tiên của VN do Tạ Phước viết gồm có 3 bè, viết ở giọng Sol trưởng


-Nhạc sĩ phản chiến đầu tiên và nổi tiếng nhất của Việt NamTrịnh Công Sơn . Có một số nhạc sĩ khác như Miên Đức Thắng…cũng đi theo đường hướng này nhưng không nổi bật bằng . Ông cũng là người sáng tác nhiều ca khúc nhất : gần 600 bài , là nhạc sĩ sống trong nước duy nhất có tên trong các Tự điển bách khoa nổi tiếng của thế giới .

T.M.P

MỘT CÁI NHÌN VỀ ROCK VIỆT


Trong lúc nhạc Pop Việt đang lâm vào khủng hoảng với những vấn nạn đáng buồn và xấu hổ thì Rock Việt quay trở lại.Có Phải Rock đang hồi sinh như một tín hiệu vui? Phải chăng Rock trở thành một nhịp điệu-cũ mà mới,mới mà cũ-sẽ át đi và hy vọng có thể làm quên đi những điệu nhạc buồn của Pop với những lỗi nhịp khó tha thứ?Rock Việt có thể làm được điều đó như mong đợi?

Có vẻ như sự trình diện của nhóm Bức Tường với live show Bông hồng thuỷ tinh cách đây khoảng một tháng gợi cho ta sự hồi sinh và cứu tinh của Rock cho nền nhạc trẻ Việt. Những bước trở lại ban đầu không quá tệ của Bức Tường với những món ăn lâu ngày không được nếm đã đưa chúng ta lên nấc thang đầu của niềm hào hứng âm nhạc đang nguội lạnh gần đây.Rock được tung hô hơn những gì nó có là vì thế; và niềm mong đợi lớn hơn thực tiễn của Rock Việt đã khiến hai đêm nhạc Rock cuối tháng 5-2004 vừa qua tại sân Lan Anh(TpHCM) trở thành hai đêm hụt hẫng của Rock mà hai nạn nhân là Trio 666 và MTV. Từ nấc thang đầu tiên, nhiều fan của Rock lại rơi xuống mặt đất.

Rock Việt đã có nhiều lần trồi sụt.

SàiGòn là nơi Rock Việt ra đời đầu tiên từ thập niên 60, du nhập theo bước chân lính viễn chinh Mỹ. Rock Việt lúc đó là “Rock nhái” với những ban nhạc “cóp”Mỹ hoàn toàn từ cái tên cho đến phong cách. Lúc đó, những ca sĩ hát kiểu Rock cũng rất nổi danh và được ái mộ dài lâu như Elvis Phương, Julie…Nhưng Rock chưa bao giờ là đỉnh điểm thời ấy dù sau đó có Phượng Hoàng ra đời với ít nhiều tính sáng tạo và những bài hát có bản sắc hơn những gì đã diễn ra trước đó.

Sau 1975, Rock trở lại với thời hoàng kim của nó từ cuối thập niên 90. Có hàng chục nhóm Rock với nhiều phong vị Rock khác nhau đã tạo ra một diện mạo mới của Rock Việt. Nhiều sân chơi cho Rock được mở ra mà tâm trí người yêu Rock còn nhớ được: Liên hoan Pop-Rock tại nhà văn hoá TN TpHCM(1990). Phong trào Unplugged giữa thập niên 90. Liên hoan các ban nhạc sinh viên ở Hà Nội(9-98) Đại hội nhạc trẻ mùa thu tại trung tâm văn hoá quận 5, TpHCM(8-99). Các chương trình Đêm Trẻ, Giai điệu Trẻ, Hội quán Trẻ…Có thể gọi đầu thập niên 90 là cao trào của Rock Việt với những cái tên quen thuộc: Trắng đen,Da Vàng, Alpha...Nhưng sau những dịch chuyển hình Sin suốt thập niên 90 Rock lắng đọng rồi biến mất.


                                                    Nguyễn Đạt-Linh hồn nhóm Da vàng

Nếu tính từ lần”Hội quần hùng anh hào Rock”lần cuối tại Đại hội nhạc trẻ mùa thu 1999 thì Rock Việt”lặn”mất gần 5 năm cho đến gần đây với sự xuất hiện của Bức Tường rồi sau đó là 666 và MTV.

Rock vừa trồi lại sụt ngay? Rock vừa trở về lại vội đi? Thật quá buồn cho ai mất 5 năm mong đợi? Có đúng vậy không?

Không phải với vài trăm khán giả đến với 2 đêm Rock cuối tháng 5 là cơ sở để gọi Rock đại bại. Dù ta có nhớ lại đã có hàng ngàn khán giả trong thời hưng thịnh của Rock như ở Liên hoan Pop-Rock năm 1990 chẳng hạn. Con số đôi khi không ý nghĩa gì trong một hoàn cảnh nào đó. Cái thua của Rock 666 và MTV nằm ở tinh thần Rock và tố chất Rock.

Có ai đó nói rằng Rock là một Văn hoá mở vì thế nó thích nghi với mọi nền Văn hoá và mọi thứ pha trộn theo kiểu Multi-Media. Nói thế không sai nhưng vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa là vì không chỉ Rock mà mọi nền Văn hoá sống động đều mở. Thiếu là vì thích nghi là một chuyện nhưng phát triển tốt hay không là chuyện khác.

Văn hoá Việt, tố chất Việt không phải là mảnh đất màu mở để Rock phát triển toàn diện dù nó thích nghi được với Rock.

Rock không chỉ là gầm rú, là hầm hố. Đó chỉ là một cành nhánh. Heavy metal, Hard  Rock chẳng hạn(Led Zeppelin, Blak Sabbath, Motorhead…) Rock không chỉ hát như gào thét,”chửi bới”như Modern Rock(Kate Bush, Alanis Morissette). Rock còn là sự tinh tế. Như là Classic Rock(Eric Clapton, Jimmy Hendrix…) Hoặc là một dạng tổng hợp tạo ra cái gì mới như Alternative Rock(Nivarna, R.E.M, Pearl Jam, Oasis…)

Rock không đại chúng như Pop nhưng cũng không cao siêu như Jazz. Nhưng vẫn có thứ Rock dễ nghe(Bryan Adam, The Eagles, Gary Moore…). Thuật ngữ gọi là AOR(Adult Oriented Rock)

Vân vân…

Rock cũng dễ dàng pha trộn với các hình thái nhạc khác mà vẫn cứ là Rock như Rock tinh tuyền vậy. Có thể kể: Country-Rock, Jazz-Rock, Folk-Rock…Thậm chí có cả Opéra-Rock nữa.

Rock không cứ phải là hình thức, áo quần, tóc tai dữ dằn. Chắc hẳn mọi người vẫn nhớ anh chàng Beck với một giải Grammy cho nhạc Rock có vẻ giống thư sinh hơn là một hình ảnh quen thuộc về Rock có ngoại hình quái nhân.

Vậy mà những gì 666 và MTV phô diễn với cái gọi là Alternative Rock(Tạm dịch: một thứ Rock khác) tại sao đành phải gọi là Rock loãng hay đúng hơn là Demi-Rock(Rock nửa vời)? Dù khái niệm Rock vô cùng mở và linh động như đã nói ở trên.

Đặc trưng của Rock là giọng ca cũng là nhạc cụ. Nhạc chính, ca phụ. Rock được giải thích như thế ngoài một lối sống, một phong cách và một kiểu văn hoá Rock đi kèm.

Nếu thế thì 666 và MTV chưa phải là Rock ngoài việc chơi Pop khá tốt với một kiểu phỏng theo Rock cho dù có biện minh như trên. Bức Tường đã vượt xa hơn họ dẫu chưa phải là xuất sắc nhưng có thể chấp nhận được.

Rock xuất hiện và không chết. Rock luôn tuôn chảy như suối ngàn hoặc như mạch ngầm. Chí ít trên thế giới Rock là như thế, và ở Việt Nam có thể cũng là như thế. Nhưng Rock sẽ không bao giờ phát triển tốt ở Việt Nam như Pop cho dù nó thích nghi như chính khả năng thích ứng cao của nó. Vậy thì đừng bao giờ đặt kỳ vọng cao vào Rock Việt.

Bài viết này không phải là chê Rock Việt, cũng không phải bài Rock nội. Nó chỉ đưa ra một cái nhìn về Rock trên cơ sở Văn hoá Rock và thực tiễn Rock Việt chứ không phải là sản phẩm của cảm tính.

Tôi không yêu Rock nhưng hoàn toàn kính trọng Rock.Bởi vì nó là văn hoá, là sáng tạo.Tôi chỉ không tôn trọng cái gì kém sáng tạo, thiếu nội lực nhưng lại nhân danh Rock để làm Rock như một nền văn hoá đa cấp, đa phương và nhạy cảm khiến Rock mất giá trị trong đôi mắt những người chưa hiểu Rock.

T.M.P

THỬ BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG “ỐC MƯỢN HỒN”TRONG CA KHÚC VIỆT HIỆN NAY



Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFI(Pháp) vào lúc 22g30 ngày 19/4/2004,tôi đã ví von:”Nhạc Việt lên ngôi cách đây 6,7 năm và cho đến nay thực chất chỉ là một hiện tượng “Ốc mượn hồn”,nghĩa là công chúng chỉ thoả mãn lòng tự ái dân tộc trên những giá trị ảo mà đa phần các bài hát được ký tên bởi tác giả Việt nhưng chất liệu và màu sắc âm nhạc không phải là của họ hoặc ít mang dấu ấn sáng tạo của cá nhân và càng ít hơn nữa diện mạo văn hoá Việt(chỉ xét về mặt âm nhạc,còn phần lời ca chưa đề cập đến)”

Phạm vi của bài viết này không nói đến sự đạo nhạc trắng trợn-sự tranh luận và chứng minh sự “đạo” hay không “đạo” hãy để cho công luận và lịch sử tiếp tục phán xét-mà chỉ xin bàn đến sự thẩm thấu văn hoá của tài năng (âm nhạc) để tạo nên một nền âm nhạc (chỉ đề cập đến lãnh vực ca khúc-một hình thức nhỏ của âm nhạc nhưng gần như là diện mạo chính của Nhạc Việt) phát triển trên nền tảng “ảnh hưởng” hay là “sao chép” những yếu tố ngoại lai.

Sự ảnh hưởng trong các nền văn hoá là tất nhiên, âm nhạc không đứng ngoài quy luật đó. Đấy là nói đến tính vĩ mô,còn ở tính vi mô thì sự ảnh hưởng giữa các cá nhân sáng tạo lại càng rõ rệt hơn nữa.(Một Beethoven thiên tài còn phải chịu ảnh hưởng của Mozart trong những tác phẩm đầu tay của mình để từ đó phóng xa hơn vào không gian sáng tạo)

Hãy bắt đầu từ tổng thể âm nhạc Việt từ thuở sơ khai,chúng ta đã thấy ngay cha ông ta đã chịu ảnh hưởng của một trong 2 nền âm nhạc lớn nhất châu Á là Trung Hoa(nền âm nhạc kia là Ấn Độ), điều chứng minh trước hết nằm trong cơ sở lý luận cũng như nền tảng kiến thức nhạc học Việt hầu hết là dựa theo nhạc học của cường quốc phương bắc này(Có thể nhận thấy điều đó khi xem Vũ Trung Tuỳ Bút-Phạm Đình Hổ hoặc Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quý Đôn- một trong rất ít các tài liệu về nhạc học Việt),sau đó là một số giai điệu cổ truyền Việt đều chịu ảnh hưởng một số lòng bản nhạc Hoa.



Tiếp đến giai đoạn hiện đại với thời kỳ tân nhạc Việt những năm 30 của thế kỷ trước, âm nhạc Việt lại tiếp tục du nhập âm nhạc phương tây từ nhạc lý,ký âm pháp,hình thức cho đến thể điệu.

Sự vay mượn và ảnh hưởng như thế cứ tiếp tục trên cái sườn phát triển của âm nhạc Việt cho đến những tháng năm đương đại này.Vậy thì cao trào phê phán nhạc trẻ Việt lai căng trong thời gian vừa qua có quá nặng tay và ấu trĩ cho một nền âm nhạc vốn dĩ đã chịu ảnh hưởng ít nhiều các tác động ngoại lai?

Câu trả lời là không!

Bản thân của văn hoá là sống động và phát triển từ các sự tương tác và thẩm thấu.Trong quá khứ cha ông ta đã vay mượn ngũ cung Hoa để thẩm thấu thành ngũ cung Việt(Hò,xự,xang,xê,cống từ cung,thương,giốc,chuỷ,vũ) rồi du nhập thất cung(do,re,mi.fa,sol,la,si)của Tây phương kết hợp với ngũ cung Việt với sự tiết chế các bán âm để tạo nên một gương mặt tân nhạc có đầy đủ tâm hồn và nét văn hoá Việt trên các công cụ ngoại lai, đó là sự Việt hoá thành công ít nhiều(tuỳ từng tác giả) nền âm nhạc du nhập từ bên kia Thái bình dương.Do vậy,chúng ta đã có một nền âm nhạc -vẫn thừơng đươc gọi là nhạc tiền chiến-làm “của riêng” trong gia tài của Văn hoá Việt.

Còn hiện nay chúng ta đã làm gì để tiếp tục thẩm thấu và phát triển những vốn liếng đó của cha ông?”

“Con hơn cha là nhà có phúc”.Ngôi nhà âm nhạc Việt đã gần như mất nóc khi thế hệ hậu sinh lại thụt lùi một bước so với các bậc tiền bối.Chúng ta vay mượn mà không có một sự thẩm thấu nào cả để”lọc” nên một tâm hồn và bản sắc Việt.Từ sự chịu ảnh hưởng,chịu tương tác để học hỏi và phát triển của cha ông chúng ta rơi xuống cấp thấp hơn, đó là sự vay mượn vụng về và bị động theo gần đúng với hành vi sao chép.Trong khi đó xét trên góc độ cá nhân thì ngay cả một dấu ấn cá tính của âm nhạc(yếu tính tạo nên cá nhân sáng tạo)trong các sáng tác hiện nay cũng rất mờ nhạt chứ chưa nói đến dấu ấn của một nền văn hoá.Có thể thông cảm cho một nền tảng sáng tác đang bị thị trường làm chao đảo(Nhân tố này chưa xuất hiện hoặc chỉ hiện diện mờ nhạt trong các giai đoạn âm nhạc Việt trước đây)nhưng cũng không thể hợp lý khi biện minh cho tài năng và lòng tự trọng của người viết nhạc hiện nay phần lớn đang ở điểm số dưới trung bình mà gần một thập niên sau khi được ca tụng thì ánh sáng của sự thật đã cho thấy đó chỉ là một nền ca nhạc của bong bóng xà phòng mà thôi.Thực trạng của nền âm nhạc hiện tại cho thấy nó càng lúc càng hỗn loạn(mất phương hướng hoặc định hướng sai lầm) và rỗng tuếch(về thái độ sống và làm nghệ thuật).Chúng ta đau lòng khi phải nhận định rằng đa số các tác giả viết nhạc chỉ là những “người thợ làm nhạc khéo tay” chứ không phải là “người viết nhạc có tâm hồn nghệ sĩ”



Cũng có người xuê xoa rằng một nền âm nhạc chủ đạo là ca khúc mà lại là ca khúc phổ thông hơn là ca khúc nghệ thuật thì sự đòi hỏi sáng tạo là chuyện viễn vông và quan trọng hoá mọi sự việc vượt quá bản chất của nó.Tôi không đồng ý như thế cũng như hiện thực khách quan và lòng tự trọng của người làm văn hoá không cho phép suy nghĩ như thế.Ca khúc phổ thông cũng là một diện mạo văn hoá mà văn hoá không thể không có dấu ấn sáng tạo(cho dù ca khúc phổ thông “hàm lượng”chất xám có ít hơn so với ca khúc nghệ thuật) trên một mẫu số chung là nét văn hoá riêng và cá tính riêng trong sự tương tác,rồi thẩm thấu và phát triển bởi sự ảnh hưởng,học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hoá(dù đơn phương hay đa phương). Đó cũng là cũng là một cứu cánh của một nền văn hoá toàn cầu mà dòng chảy của một nền âm nhạc không biên giới(World music) đâ và đang hướng tới:Thâu tóm đại đồng rồi phát triển dị biệt!

Tôi tin trong cơn đau đớn của cuộc đại phẫu thuật vừa qua nhạc Việt sẽ tỉnh giấc và hồi sinh.Nó thực sự sẽ lên ngôi với những giá trị thật chứ không còn sống kiếp “Ốc mượn hồn” nữa.

T.M.P
                                                                                             
                                                                                                   

HIỆN TƯỢNG “NGHỆ SĨ” SAO CHÉP NHẠC VÀ NHỮNG NGỤY BIỆN CỦA NÓ: NHỮNG KÝ SINH TRÙNG CỦA SÁNG TẠO




Không thể bỏ qua những đóng góp đáng kể mà nhạc trẻ trong khoảng gần một thập niên trở lại đây đã mang đến những nét tích cực cho nền ca khúc Việt:Đáp ứng nhu cầu giải trí của đại bộ phận công chúng trẻ,góp phần tạo ra nhiều sân chơi âm nhạc cho HS-SV,kích thích sự phát triển của công nghệ ghi âm và kỹ thuật âm thanh,du nhập một số yếu tính hiện đại của nhạc phổ thông thế giới vào Việt Nam…

Tuy nhiên,những mặt tiêu cực khác dần dần xuất hiện với những vấn nạn lớn đã đẩy nền nhạc trẻ Việt Nam rơi vào khủng hoảng mà “biến cố tháng tư”vừa rồi là một sự kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử âm nhạc Việt Nam từ trước đến nay.Nó là kết cục nhân quả của sự lệch lạc trong quan niệm không rõ ràng giữa học hỏi,ảnh hưởng với sao chép,bắt chước;giữa hội nhập với lệ thuộc.Nó phản ánh rõ ràng một ý thức và trình độ về lý luận nghệ thuật thấp kém cũng như là sự thiếu vắng lòng tự trọng của một số tác giả viết ca khúc.Tất cả đã góp phần đẻ ra môt nền nhạc trẻ suy dinh dưỡng về sáng tạo và đầy dẫy những con ký sinh vào sáng tác của người khác.

Không chịu nhận mình là sao chép dù bài hát của mình đã được minh chứng cho thấy nó giống đến mức nghiêm trọng sáng tác của người khác;những tác giả viết nhạc sao chép gần đây-mà điển hình là Quốc Bảo-đã công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng lý luận trích dẫn của người Nhật:”Bắt chước để sáng tạo”(!?)và tự nhận mình là người theo trào lưu”Cắt,dán”của một số nhạc sĩ đương đại nổi tiếng trên thế giới để thanh minh cho những bài hát bị mang tiếng là “sao y” của mình.

Giữa cái”không chịu nhận” với cái”công khai bắt chước và cắt dán”đã cho thấy tư tưởng này hoàn toàn mâu thuẫn với nhau:Không chịu nhận là sao chép nhưng khẳng định là mình bắt chướccắt dán.Đây chỉ là sự khác từ nhưng đồng nghĩa.

Vậy thế nào là bắt chước-sáng tạo?và cắt,dán là gì mà có thể ngụy biện cho hai tác phẩm giống nhau?

Xuất hiện nhiều nhất trên báo mạng(báo điện tử) là tư tưởng cổ suý và ca ngợi cho kiểu sáng tác theo trào lưu”Cắt,dán”trong âm nhạc.Theo họ,có nghĩa là viết nhạc bây giờ chì là một công việc”Remix”(pha trộn lại)những chất liệu,ý tưởng,những sáng tạo của người khác thành một tác phẩm kiểu”đầu Ngô mình Sở”rồi ký tên mình.Họ kết luận đó là một phương pháp sáng tác hiện đại,tiên tiến biết tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại và gọi những người chống đối lại cách làm này là lực lượng bảo thủ và tri thức kém,ấu trĩ(!?).

Đây chỉ là một hành vi bóp méo và xuyên tạc rất thâm độc nghệ thuật cắt dán (Collage) đã được sử dụng trong hội hoạ của chủ nghĩa lập thể (Cubism) và trừu tượng (Abstract) ở đầu thế kỷ 20 bởi các nghệ sĩ tiền phong(avant garde).Sau này nó cũng đã ảnh hưởng đến một số nghệ sĩ đương đại khác trong âm nhạc.Cần phải khẳng định rằng “cắt dán” của những nghệ sĩ này được hiểu là một nghệ thuật sắp xếp để sáng tạo ra cái mới và phần tác phẩm được”cắt”chỉ là cái cớ,tạo hứng cảm hoặc làm đề dẫn cho nội dung ,và trong mọi trường hợp các tác phẩm đó đều ghi chú minh bạch xuất xứ của nó hoặc đề tên đồng tác giả(Trừ trường hợp dân ca hoặc những tác phẩm mà ai ai cũng biết.Ví dụ như”Happy birth day”hoặc”Happy Newyear”…).Hoặc ở một khía cạnh khác họ không lấy tác phẩm mà chỉ lấy thái độ để phản kháng lại một nền văn hoá mà họ cho là không còn phù hợp nữa(Theo kiểu phản văn hoá[counter-culture]của trường phái DaDa.Trường hợp này nếu ta có học hỏi,tiếp thu thì phải có tính phê phán và gạn lọc lại vì bối cảnh địa lý và lịch sử hoàn toàn khác nhau).

Trong khi đó những “tác phẩm”Việt nam được bảo vệ bởi lập luận này cho thấy chỉ là sự cóp nhặt đơn thuần,không có dấu vết sáng tạo và tệ hại là không ghi rõ xuất xứ phần tác phẩm bị cắt,đó là một sự lập lờ khộng đàng hoàng nếu không muốn nói là vi phạm bản quyền.

                                      Nhạc Việt đa phần là sao chép từ phong cách biểu diễn 
                                                                    cho đến bài hát

Đây là một luận lý ngụy biện và mang động cơ mỵ dân.Tại sao khi chưa bị vạch trần những tác phẩm mang dấu vết sao chép ra cho công chúng biết thì những tác giả này hoàn toàn im như thóc không hề tuyên ngôn tuyên cáo gì về những kiễu cách ”sáng tác” đó,cũng như những ngọn nguồn vay mượn mà luôn miệng khẳng định : đó là sáng tạo là cảm hứng của tôi?cho đến khi bị phát hiện họ mới vội vã “núp vào” trường phái và trào lưu của thế giới,bóp méo ý nghĩa của nó đi dưới cái vỏ học giả,học thuật rồi mới chịu trưng nó ra để hòng đánh lạc hướng dư luận.

Tương tự như vậy,để tăng thêm “giá trị” của những tác phẩm sao chép họ còn đưa ra tuyên ngôn”Bắt chước để sáng tạo”rút ra từ một quan điểm của người Nhật.

Đây chẳng qua cũng là một kiểu cách trích dẫn xuyên tạc và bóp méo ý nghĩa của ngữ nghĩa.Tinh thần câu nói này của người Nhật thâm thuý hơn nhiều:”Bắt chước để sáng tạo ra cái-không-còn-giống-như-cái-bắt-chước”(Tôi xin nhấn mạnh)Trong khi đó những bài hát”bắt chước để sáng tạo “của Việt Nam hoàn toàn chỉ là những tác phẩm nhái lại rất thô thiển hoặc tệ hơn là song sinh,là đạo nhạc.Khộng còn cách gọi nào khác lịch sự hơn.

Có tác giả có cả chục bài bị giống nhau như thế và họ lại “tự hào” tự nhận mình có “chủ tâm sao chép” như là một phong cách sáng tác đương đại.Không thể bình luận gì hơn về một “nhân cách sáng tạo”rẻ tiền và một “kiểu học hỏi” bệnh hoạn như vậy.

Nếu thật sự một dân tộc như người Nhật chỉ biết bắt chước đơn thuần như “khỉ và vẹt” thì đất nước họ chỉ là một quốc gia lệ thuộc chứ đừng nói là một trong những cường quốc hàng đầu của thế giới.

Điều nguy hiểm cho nhạc trẻ Việt Nam bây giờ là đối với một số tác giả bài hát việc giống nhau giữa các tác phẩm không còn vì thiếu tài năng hay bản lĩnh dẫn đến việc”cầm nhầm”của người khác,mà đó là “phong cách”là”kỹ năng”có chủ tâm.Họ quan niệm rằng thế giới này đã có quá nhiều sáng tạo nên chúng ta dại gì mà không ăn theo,ăn sẵn những sáng tác trong kho tàng văn hoá của nhận loại(?!)

Rõ ràng khi bệnh hình thức đã hết thuốc chữa.Tâm hồn đã chai sạn cảm xúc.Sự sáng tạo đã cạn kiệt.Trí óc đã biến thành một máy tính.Sự thực dụng lấp đầy lãng mạn.Nhưng tham vọng về danh lợi quá cao và quá tự yêu mình bằng cách lợi dụng và nhân danh nghệ thuật.Những”nghệ sĩ”sao chép trong âm nhạc Việt hiện nay đang là biểu tượng cho cái gì nằm ngoài ý nghĩa cao đẹp của “Nghệ thuật” và “Sáng tạo”?

Những ký sinh trùng của sáng tạo.Chỉ có thể nói như thế và buộc lòng phải gọi họ như thế.

T.M.P

“MỘT LỜI NHẮN” CHO “NHỮNG LỜI THƯA”



Lý ra tôi không tranh luận với Q.B làm gì vì không muốn làm một việc thừa khi mọi sự đã có “vật chứng” và “bằng chứng” nói lên rất rõ trắng đen nằm ở đâu.Trong âm nhạc nghe là đủ,nghe là hiểu(đơn giản vì nhạc viết ra là để nghe.Nghe để thưởng thức.Nghe để phê bình)Thế nhưng khi Q.B bắt đầu cao giọng dùng ngôn ngữ làm xiếc,cũng như trưng ra nhiều thứ học thuật ghi chép được ở đâu đó để tung hoả mù và lớn giọng đề cao cá nhân mình như một tài năng âm nhạc lớn cùng với phát biểu cho rằng mọi ý kiến đóng góp cho anh  đều là kém hiểu biết và tồi…thì tôi không cưỡng lại được châm ngôn của Hàng Công:”Biết mà không nói là bất nhân.Nói mà không hết là bất nghĩa”.Vì vậy tôi xin đươc nói.

    Theo tôi,một số hiểu biết của các bạn trên banyeunhac.com về âm nhạc thật là đáng nể khi phân tích khá hay về những bài hát giống nhau,nhưng tôi cũng xin được góp ý là các bạn chưa phải đạo lắm khi lại đóng vai một kẻ nặc danh trong lúc đang làm một công việc đòi hỏi phải chịu trách nhiệm chính danh(vì vậy các bạn đã đặt mình vào chỗ bất lợi khi đang ở thế thượng phong)Tôi đã tìm nghe lại rất kỹ những bài hát đó và buộc mình phải khách quan mà nói rằng:Phần lớn nếu những tác phẩm đó của Q.B là… vô tư thì việc sáng tác bài hát chỉ còn là thủ công và nạn đạo nhạc sẽ có một ngoại lệ để biện minh cho những nhạc phẩm copy!Tôi xin tranh luận từng phần một về từng điểm lý luận của Q.B thanh minh cho sự giống nhau của hai bài hát.

  1. Phần giai điệu chỉ là một thành tố, trong khi hòa âm, các phương tiện thu âm, giọng hát và hiển nhiên, ca từ, nhiều khi lại đóng vai trò chính trong việc diễn đạt cảm xúc.

Q.B đưa ra quan niệm như thế.(Hãy gạt bỏ bớt phần ca từ đi vì chúng ta đang phân tích đến yếu tố nhạc mà thôi)Tôi e rằng anh đã quá hốt hoảng khi đứng trước sự thật là có một số bài của anh có giai điệu na ná những bài hát khác mà vội đánh trống lãng.Bởi vì thành tố quan trọng của âm nhạc(trong ca khúc) chính là giai điệu và tiết tấu.Trong khi đó chúng ta biết rõ rằng một bài hát có thể có hàng chục lối hoà âm phối khí khác nhau.Vì vậy nói “hoà âm nhiều khi lại đóng vai trò chính” là buồn cười.Một giai điệu đẹp sẽ là một đắc dụng để sinh ra những hoà âm đẹp,còn vế ngược lại sẽ là một sự khiên cưỡng khó chịu.Có khi một giai điệu đẹp chỉ cần một nền hoà âm đơn sơ minh hoạ là đủ.Nếu quan niệm như Q.B thì nhiều nhạc sĩ hoà âm chỉ làm mỗi công việc là đi tìm giai điệu đẹp của ai đó rồi đặt vòng hoà âm của mình vào,tổ chức phối khí là có thể đứng tên cho toàn bộ bài hát đó!?(Bạn có chấp nhận một số giai điệu của Trịnh Công Sơn được hoà âm công phu lại rồi ký tên tác giả hoà âm?)Nhưng than ôi điều mà ai cũng biết rằng linh hồn và cũng là phần sáng tạo tối thượng nhất của ca khúc chính là giai điệu.Một giai điệu vô hồn thì không thể có một nền hoà âm,một phương tiện thu thanh hay giọng hát kiệt xuất nào có thể tạo nên cảm xúc được(Nếu có cũng chỉ cứu lấy được một phần rất nhỏ thôi)
Và đây là một minh chứng cho thấy chính Q.B tự phản biện mình qua những dòng sau:
“Tình Ca” được viết trên một nền phối khí có sẵn, đó là bản remix không giai điệu của cặp bài trùng xuất sắc Jam & Lewis. Bản mp3 được upload trên một website dành cho các DJs quốc tế, và đương nhiên, royalty-free (miễn tác quyền) cho members”… “Còn cảm hứng chủ đạo của “Tình Ca” thực ra nằm ở câu hát “Sẽ đánh thức tình em đấy, chắc em không ngại” chứ chẳng hề ở đâu khác; và nó chẳng hề vơi đi khi không có bản remix kia.”
Một nền hoà âm có thể free chứ một giai điệu không thể free được(ngoại trừ dân ca)cho thấy chưa bao giờ và không bao giờ một nền hoà âm là một thành tố quan trọng hơn giai điệu,và Q.B cũng tự khẳng định như thế:”nó chẳng hề vơi đi khi không có bản remix kia.”.

Sự đảo lộn 180 độ trong quan niệm của Q.B cho thấy anh đang nguỵ biện với chính mình!

  1. Khả năng trùng hợp hòa âm giữa hai hay nhiều bài hát là rất lớn; vin vào vòng hòa âm giống nhau để kết luận hai tác phẩm ăn cắp của nhau là lý luận tồi, kém hiểu biết.

 Hoà âm tuy không phải là thành tố quan trọng như giai điệu trong ca khúc nhưng nó vẫn đóng vai trò là một sản phẩm âm nhạc(hiểu theo nghĩa phải lao động bằng chất xám).Cho nên cũng rất tối kỵ cho việc hai bản hoà âm giống nhau như đúc nhất là với những bản hoà âm có đường hoà âm đặc biệt,mang nhiều yếu tố tim tòi,sáng tạo trong vòng công năng cũng như cách tạo hợp âm và cả cách giải quyết mối liên kết theo chiều ngang của hàng hợp âm(vì vậy mới có khái niệm hoà âm hay,hoà âm dở)Ta có thể sáng tác trên một nền hoà âm hay của các bài hát giá trị trên thế giới bằng cách lột bỏ giai điệu của nó đi(nhưng rất dễ xảy ra sự tương đồng về giai điệu)như vậy sau khi có một ca khúc mới ta không cần phải làm thêm công việc hoà âm nữa. Điều đó có nên không và các nhạc sĩ hoà âm sẽ phản ứng ra sao khi có một lối hoà âm ăn sẵn như thế?Nói ăn cắp e quá nặng nhưng ăn sẵn thì khá hợp lý hơn.

Nói tóm lại,chỉ cần một kiến thức cơ bản về hoà âm là có thể nghe hai bản hoà âm giống nhau là biết nó giống nhau vì trùng hợp(đường hoà âm đơn giản,cơ bản và bình thường)hay vay mượn,sao chép(đường hoà âm độc đáo,tính sáng tạo cao).Trong trường hợp Q.B, những bản hoà âm này có chất lượng sáng tạo cao theo đúng chuẩn nhạc Âu-Mỹ hiện đại mà các nhạc sĩ hoà âm Việt còn phải học hỏi nhiều.

3. Xu hướng “nhại lại”, “cắt dán” của trào lưu post-modernism

Nhiều năm trước tôi đã không lạ gì về phương pháp viết bài hát của Q.B. Đó là lối sáng tác theo mô hình và công thức đã được thiết kế sẵn theo từng thể loại thậm chí theo từng kiểu giọng.Mô hình và công thức đó được tham khảo và lấy làm chuẩn mực từ rất nhiều ca khúc đa thể loại và đa phong cách của Âu-Mỹ đã được Q.B làm đầu ra cho tác phẩm của mình theo kiểu sản xuất công nghiệp.Có một vài lần trò chuyện về nghề nhạc ,Q.B đã một phần hé lộ với tôi như thế.Lúc đó tôi có nói bóng gió với anh rằng tôi rất thán phục kiểu làm việc cần mẫn như con ong thợ của anh nhưng đứng về mặt cảm xúc nghệ thuật thì nên coi lại,và tôi cũng lưu ý anh hãy coi chừng trường hợp”tẩu hoả nhập ma”có thể khiến giai điệu của anh sẽ dẫm chân lên giai điệu của người khác.Lúc đó ns Đoàn Xuân Mỹ(người thời đó hay đàm luận với tôi và Q.B về âm nhạc do chúng tôi cùng cộng tác một thời gian ngắn với trang âm nhạc của báo Tuổi trẻ chủ nhật mà anh Mỹ phụ trách)cũng là người nêu lên quan ngại đó với tôi,bởi vì:”Sáng tác vừa không phải là một hành vi sao chép một công thức lại vừa không phải là một trò gieo xúc xắc. Việc ấy đòi hỏi tri thức về văn hoá và tư duy độc lập”(nhà soạn nhạc và nghiên cứu âm nhạc Trung quốc Chu Văn Trung-lấy từ nguồn Giai điệu xanh)

                  Sáng tác phải là một hành vi văn hóa và tư duy độc lập mới đáng được tôn vinh

Và hôm nay chuyện tất đến đã đến…

Còn trào lưu “nhại lại” và “cắt dán”?Một trào lưu nghệ thuật không thể nắm lấy bản chất nó qua vài từ hiểu theo nghĩa đen.Cũng có thể tin rằng sự “nhại lại”  hoặc “cắt dán” được đưa vào một ý niệm nghệ thuật chứ không phải theo lối “thủ công”và họ lấy thái độhành vi chứ không hẳn là tác phẩm để phản kháng lại một thời đại,xã hội quá rập khuôn và máy móc.Bởi vì đề cao trào lưu này theo kiểu sao chép đầu Ngô mình Sở thì thật tội nghiệp cho lao động của nghệ thuật sáng tạo quá.Và nghe Q.B qua một số bài nghi án,tôi đã thấy rõ anh “nhại lại” và “cắt dán”theo kiểu một người thợ hơn(dù là một người thợ giỏi nghề) là một cảm thức nghệ thuật hoặc đưa ra một thái độ xã hội ngoài “tác phẩm”nhại lại của mình
Tôi nhớ và mọi người còn nhớ hơn tôi khi anh đã từng viết báo phê bình lối viết bài hát nhái và sao chép nhạc Hoa,Hàn,Thái…của một số nhạc sĩ trẻ .Anh nghĩ sao khi tôi biện hộ dùm là họ cũng chỉ là con dân của trào lưu post-modernism( nhại lại và cắt dán)đáng kính của anh?Tuy nhiên ,cũng phải thừa nhận cách nhại lại và cắt dán cùa anh tinh vi và công phu hơn các tác giả trẻ kia nhiều,và đối tượng”nhại lại” của anh là các tác phẩm có giá trị cao chứng tỏ anh có thị hiếu thẩm mỹ cao hơn họ.

Có một điều rõ rệt như ban ngày mà chính Q.B đã đưa ra qua các biện minh về các bài hát của mình. Đó là:chủ tâm lấy nhiều chủ đề âm nhạc khác để biến tấu và phát triển trong nhiều bài hát của mình.Chính ở chủ tâm này cho thấy anh ít nghiêng về cảm xúc của nghệ sĩ mà lại ngã về hướng tinh xảo của người thợ hơn.Một nhạc sĩ dựa trên một chủ đề rồi phát triển thành một tác phẩm hoàn chỉnh của mình là chuyện bình thường và chấp nhận được nếu”quang minh chính đại”theo 3 điều kiện sau:
-Đừng quá lạm dụng trong nhiều sáng tác của mình(vay mượn quá nhiều cảm hứng của người khác cho thấy mình là người ít cảm xúc và ít khả năng tìm ra một chủ đề âm nhạc hay nên cần phải nhờ sự”mở đường” của người khác)
-Nếu chủ tâm vay mượn chủ đề thì phải nói rõ xuất xứ chứ không nên để mọi người có thắc mắc rồi mới dẫn chứng dễ bị hiểu là “mập mờ đánh lận con đen” (ở nước ngoài người ta có thể đi kiện nếu chủ đề âm nhạc bị người khác lấy mà không xin phép hoặc không ghi rõ nguồn gốc). Q.B không rạch ròi chuyện này trước đây.
-Thủ pháp phát triển như thế nào để cho thấy tính sáng tạo của mình ở phần phát triển tiếp theo của âm nhạc,khi đó chủ đề vay mượn chỉ còn là cái cớ để cảm hứng và sáng tạo của mình được khẳng định.Còn nếu ngược lại thì cái án đạo nhạc khó lòng buông tha.Nghe kỹ lại Q.B thì sự phát triển của anh ăn theo quá nhiều hấp lực của chủ đề nên hiệu quả sáng tác thì ít mà phóng tác thì nhiều.
Tôi chỉ có thể đứng về phía Q.B trong trường hợp bài “Còn ta với nồng nàn”với”Swan Lake”(Hồ Thiên Nga)của Tchaikovsky.Kết tội bài này là không đúng,bởi vì đúng như anh nói”nó chỉ là cái cớ cho bài phối khí”. Điều này nhiều nghệ sĩ Âu-Mỹ cũng đã từng làm với Romance hay Letter for Élyse.Và tôi cũng đính chính dùm báo Phụ Nữ TPHCM luôn khi so sánh bài”Promise me”(B.Craven hát) với bài “Còn ta với nồng nàn” mà thật ra là na ná với bài “Cám ơn một đoá xuân ngời”.Cách đây mấy năm khi Q.B mời Mỹ Linh hát thì Linh cũng đã đưa ra nhận xét là”giống một bài ngoại quốc nào đó”.


Tôi nghĩ Q.B thường nhắc đến hai chữ tình yêu thương khi bị người khác phê bình,tôi mong sao trong những bài phê bình của anh sau này cũng cố gắng làm được như thế thì mọi người sẽ quên đi  một Q.B trước đây thường phê bình kẻ cả,ngạo mạn và rất ác khẩu đối với những đối tượng bị anh phê bình.Tôi cũng tin Q.B vẫn và sẽ còn nhiều tác phẩm hay khác mang dấu ấn rõ rệt của anh hơn. Tôi xin hẹn không ngại ngần rằng sẽ có lúc viết môt bài ca tụng anh qua những gì anh dám nhận,sữa chửa để hoàn thiện mình hơn,bởi vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh nhân, đúng không?

T.M.P

CHUYỆN…ẾCH!



Chuyện “ ếch “ không liên quan gì đến chuyện nhạc nhái ì xèo gần đây cả . Nó là chuyện “ ếch ngồi đáy giếng “ và chuyện ếch muốn to bằng bò . Đó là chuyện dại mà tưởng khôn . Chuyện cuồng tưởng , tài năng mới nhú bằng cái…đuôi mà tưởng mình là vĩ đại , đã xảy ra trong làng nhạc của những “ tài hoa trẻ “ chưa qua thẩm định !

Ếch ngồi đáy giếng

Năm 1997, chính phủ Mỹ đã trao tặng National Heritage Fellowship (Di Sản Quốc Gia) về nhạc dân tộc Việt Nam cho nhạc sĩ Việt kiều Nguyễn Thuyết Phong . Đây là một trong các giải thưởng quan trọng nhất của Mỹ dành cho những nhà nghiên cứu và có những công trình lớn , xuất sắc về nhạc dân tộc. Đó quả là một sự công nhận tài năng và tri thức cho nhạc sĩ Nguyễn Thuyết Phong và cũng là niềm tự hào cho Việt Nam . Tuy nhiên , sau khi nhận giải ông nói : “ Dù nhận được vinh dự nầy, tôi vẫn còn thấy mình chưa thực sự hiểu hết truyền thống âm nhạc dân tộc. Vì nó to lớn qúa. Ai có thể tự hào rằng mình hiểu hết, trong khi cuộc đời người quá ngắn ngủi so với lịch sử âm nhạc dài của cả dân tộc?

Vậy mà ở Việt Nam , một tác giả có vài ba bài hát ăn khách nặng phong cách Tây như Q.B , chưa có một bằng cấp hoặc một công trình biên khảo , nghiên cứu dân tộc nhạc nào lận lưng lại phát biểu rất hùng hồn khi được phỏng vấn ( đại ý ) rằng : “ Theo tôi , ngũ cung Việt Nam đã được khai thác cạn kiệt , tôi sẽ không khai phá chất liệu đó nữa “ (?!)

                                                         Ngũ cung Việt đã cạn kiệt???

Không hiểu nhạc sĩ Nguyễn Thuyết Phong nghĩ gì khi nghe nhận định đầy chất liệu “ ếch “ đó , nhưng chắc chắn rằng ngay cả những nhạc sĩ , những nhà nghiên cứu dân ca trong nước sẽ…kinh hoàng vì cái đầu óc tuyên bố câu này quá…bác học đã thâu thái hết tinh tuý dân ca , dân nhạc để thấy nó đã trở nên cạn kiệt !

Cũng kiểu tư duy “ ếch “ này tác giả Q.B đã hứng chịu cơn phẫn nộ của đồng bào Việt kiều tha hương khi đọc được nhận xét rất hàm hồ của Q.B về âm nhạc cũng như chất văn hoá Việt của Việt kiều được đăng lại trên báo mạng vnexpress . Họ đã gửi hàng trăm e-mail về để phản đối lại những ý kiến xấc láo và không có cơ sở đó . Xúc phạm đến cả một cộng đồng máu thịt của mình ở nước ngoài khi chưa hề bước chân ra khỏi nước , không sống ,   không thấu hiểu , mà cả gan đưa ra những nhận xét nông cạn thì chỉ có những con ếch nhìn thấy miệng giếng mà tưởng là cả vũ trụ mới dám huênh hoang !

Ếch muốn to bằng bò

Sau chuyện các người mẫu đua nhau với phong trào nói câu mở miệng : “ Tôi tự tin “ mà chưa có cơ sở cho bản lĩnh tự thân , đến lượt một số nhạc sĩ trẻ khác học đòi “ tự tôn hão “. Chẳng hạn Đ.B , một nhạc sĩ trẻ đang gây được chú ý ( Công tâm mà nói Đ.B có thực tài ở một mức độ nào đó ) đã tự đặt mình vào ngưỡng vĩ nhân khi ngạo mạn tuyên bố : Tôi sẽ tạo ra dòng nhạc mới B-Pop ( tên của anh ta + Pop ) (!?) . Một câu nói mong gây xì-căng-đan hay biểu hiện cho một sự cuồng tưởng về một chút tài năng mới chớm của mình ? ( mà tài năng ở mức độ đó không phải là hiếm ).Trời ạ , xin hãy nhìn lại một số nhạc sĩ lớn của Việt Nam được trong nước ái mộ và ngoài nước ngưỡng mộ , chưa có ai dám một lần tuyên bố kiểu “ hãnh tiến bốc đồng “ đó như sẽ tạo ra S-Pop hay D-Pop gì đó , trong khi cái bóng của họ rất to mà Đ.B trẻ tuổi nhà ta không biết bao năm nữa mới bắt kịp . Tự tin phải có cơ sở chứ đừng có ảo tưởng kiểu đòi bỏ tất cả Paris vào một cái …lọ ! Hãy cứ làm đi , chuyện vinh danh như thế hãy để cho lịch sử.

Nhạc sĩ T.K thì lại tự huyễn hoặc mình bằng lời tự xưng tụng : Rock của tôi là một thứ Rock mới có ở Việt Nam (!?) . Cơ sở của lời tự nhận xét hơi bị chảnh đó là do hai bài hát của T.K được MTV Châu Á “ chấm “ và đồng ý cho đưa vào chương trình phát sóng sau khi phải quay video lại . Than ôi , phải chi đó là sự công nhận của Grammy thì hay biết mấy nhưng đó chỉ là sự duyệt bài như hàng ngàn bài hát khác đã được duyệt với một tiêu chí thương mại và giải trí là chính yếu của kênh MTV - Một bản sao đươc nhái hơi bị mờ của MTV Mỹ ! Và trong hai đêm nhạc Rock cuối tháng 5-2004 khi được nghe hai nhóm 666 và MTV ( Lại nhái…MTV ) hát những bài Rock…” đời mới “ của T.K , người nghe chỉ thấy đó là một bài Rock rất bình thường

Than ôi ! Nhân tài như lá mùa thu mà hoang tưởng như nấm sau  mưa 

T.M.P

BẦU SÔ CA SĨ : MAY MẮN NHIỀU HƠN TÀI NĂNG



Nghề bầu ca sĩ tái xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 90 và nở rộ sau đó chỉ vài năm . Sỡ dĩ nói tái xuất hiện là vì nó đã từng tồn tại trước năm 75 ở Sài gòn - nơi đã từng làm quen với thương trường âm nhạc đầu tiên . Sau năm 75 âm nhạc nước ta không mang tính thị trường nữa vì thế vai trò bầu sô mất đi hoặc biến sang dạng thức khác . Điều này chỉ chấm dứt khi đến khoảng giữa thập niên 90 là thời điểm những yếu tố thị trường bắt đầu trở lại với âm nhạc .  Trong môi trường đó , nghề làm bầu tất yếu phải nảy sinh.

Tuy nhiên nghề bầu ca sĩ trước đây không rầm rộ như bây giờ , chủ yếu thường được xây dựng trên quan hệ thầy trò trong các lò đào tạo ca sĩ và đồng tiền chưa có giá trị vạn năng mà thường là do sự đam mê âm nhạc nhiều hơn . Bây giờ thì khác , âm nhạc đã trở thành một phương tiện kinh doanh hấp dẫn và ca sĩ sẽ là công cụ để nguời làm bầu hái ra tiền , đồng thời họ cũng quay trở lại làm bệ phóng/chống lưng cho ca sĩ leo lên những nấc thang kim tiền và danh vọng . Người làm bầu ở nước ta không cần hiểu biết gì về âm nhạc hoặc hiểu lơ tơ mơ cũng được mà chỉ cần có máu kinh doanh , nhanh nhậy với thị hiếu xã hội và có đồng vốn mạnh . Ở các nước phát triển nghề này được gọi là manager và có trường lớp hẳn hòi hoặc chí ít đó cũng là dân trong nghề hoặc có sự am hiểu thấu đáo về âm nhạc .

Nhìn lại khoảng nửa thập niên bầu sô ăn nên làm ra , điều lớn nhất in đậm trong tâm trí chúng ta là bầu sô có thể giúp người ta mua nhà lầu xe hơi nhưng chưa bao giờ nó thực sự là chuyên nghiệp mà hoàn toàn mang tính may nhờ rủi chịu , mặc dù những bầu sô thành công đều tranh nhau nói về những bí quyết , những thủ thuật lăng xê…thoáng nghe qua tưởng là những tư duy làm ăn rất khoa học và uyên thâm . Thực tế không phải như vậy . Hầu như không có ông/bà bầu nào có thể thành công với “ sản phẩm lăng xê “ thứ hai của mình . Chúng ta chỉ thấy duy nhất một hiện tượng một bầu-một ca sĩ .

Hoàng Tuấn sau thành công  Đan Trường , thừa thắng xông lên với hàng loạt dự án : Châu Hoàng Nhung , Lâm Vũ , Đăng Khôi…nhưng sau một thời gian làm việc không hiệu quả anh đành để cho những ca sĩ đó ra đi tay trắng . Hữu Minh tạo dựng được thương hiệu Cẩm Ly cũng nuôi tham vọng tiếp theo với Lê Uyên Nhi , Quang Vinh , Thanh Thanh , Vân Quang Long nhưng cũng đành xếp xó , ngoại trừ một Vân Quang Long mới về đầu quân với một chút ít chú ý như Nhi-Vinh-Thanh buổi đầu nhưng rồi chỉ dừng lại ở đấy ( Chỉ có Vinh là còn được nhắc đến chút ít còn những người kia hầu như lặng tăm ) . Đỗ Quang sau thắng lợi là người đầu tiên lăng xê đạt yêu cầu một nhóm hát theo mô hình boysband thời thượng là 1088 đã quay qua đầu tư cho Triệu Hoàng . Với “ Sản phẩm “ này không hẳn Đỗ Quang thất bại nhưng Triệu Hoàng chỉ là một hiệu quả trung bình mà thôi , chứ không có ép-phê như 1088 . Thuỷ Nguyễn đẩy được Nguyễn Phi Hùng lên hàng ca sĩ ăn khách song chị phải chịu bó tay sau đó với con bài Văn Thanh Tùng , nên đành phải buông cho ca sĩ này về núp bóng ông bầu Anh Khanh dưới bảng hiệu mới : Quách Thành Danh , nhưng cũng chưa thấy mùa xuân đâu . Quốc Bảo ” bơm “ người mẫu Ngô Thanh Vân lên hàng ca sĩ với những ấn tượng rất ồn ào, nhưng xem ra lần “ bơm “ thành công lần thứ hai là bất khả thi .

Những ví dụ kể trên đủ là một bài rao giảng của thực tế cho chúng ta hiểu rằng những thành công đến chỉ đến một lần thường là do may mắn , gặp hên nhiều hơn là do chính khả năng ( Người ta có câu : hay không bằng hên ) . Nếu có tài thực sự những thành công như thế sẽ là con số nhiều . Vậy thì những bí kíp , sự tài ba mà họ thường đề cao sao lại không giúp họ đi lại con đường “ nhung gấm “ đó lần thứ hai dù họ rất khao khát nhân đôi , nhân ba ánh hào quang này ? Thực tế này sẽ là một bài học đắt giá và là sự cảnh báo cho ca sĩ nào đó vội vã bám vào một ông/bà bầu vừa nổi tiếng bất chợt với một ca sĩ . Tâm tư đó vẫn còn là kỷ niệm ngậm ngùi khó quên của các ca sĩ làm người đến sau đã nêu tên ở trên.

Những nhân vật lớn của thế giới lăng-xê , thế giới showbiz Việt Nam dường như chưa thấy đâu mà chỉ là ló dạng những con người chơi trò xổ số với nghề bầu sô ca sĩ . Những gương mặt lớn như mong ước  sẽ giúp tạo ra một những sản phẩm của công nghệ lăng-xê có hàm lượng giá trị cao . Để nhiều người hiểu rằng nhạc thị trường không có gì xấu mà chỉ có sản phẩm thị trường xấu hoặc tốt mà thôi . Mariah Carey , Céline Dion , Whitney Houston , Madonna…cũng là sản phẩm lăng-xê , phát triển trong môi trường của âm nhạc tiêu thụ nhưng họ là những Divas , nghĩa là những siêu phẩm .Trong khi những sản phẩm khác như các nhóm boy/girl bands khác cũng ở nước họ lại chỉ là hàng chợ may sẵn , nghĩa là thứ phẩm.


     Mariah  Carey được lăng xê với hình ảnh gợi cảm nhưng vẫn có một chất giọng đẳng cấp

Còn ở ta ? Người ta thường thấy rằng những ca sĩ do bầu sô lăng xê thường chỉ là những ca sĩ tầm thấp hoặc trung bình , trong khi những ca sĩ ở tầm cao thì chính họ thường không dính dáng gì đến với ông/bà bầu nào cả . Họ tự toả sáng như một ngọn đèn giàu năng lượng nội tại chứ không phải là loại ánh sáng phản chiếu ra từ tấm gương nhờ vào một nguồn sáng vay mượn khác ./.

T.M.P

Lại Chuyện “Thầy Bói Xem Voi”

Sẽ không có một thứ suy diễn chung nào cho mọi nền âm nhạc hoặc từng thể loại âm nhạc,cũng như khộng thể lấy một quan niệm mỹ học của một nền văn hoá kia làm chuẩn mực cho nền văn hoá nọ.Ngay cả một hệ thống học thuật dù đã được chứng minh và đưa vào trong sách giáo khoa cũng bị lật nhào vì những giá trị mỹ học mới nhưng không phải vì thế mà nó trở nên vô giá trị.Chẳng hạn học thuật về Hệ thống bình quân luật của Bach vĩ đại là thế cũng đến lúc bị  musique sérielle (hệ thống 12 âm phi cung thể) được khởi xướng bởi A.Schönberg phủ định,rồi đến lượt nó bị âm nhạc nghiệm tác (experimental music)của John Cage không chấp nhận.Nhưng tất cả những phát kiến trên đều được xem là những tài sản văn hoá của nhận loại và giá trị của nó chẳng mất đi gờ-ram nào.

Bởi vậy vấn đề ở chỗ chúng ta cần chứng minh những công việc làm nhạc của ta có sáng tạo, có nghệ thuật không chứ không phải đi “cãi” giùm cho những nền học thuật,những hệ thống mỹ học đã được chứng minh giá trị sáng tạo tuyệt vời mà thế giới đã làm bởi những đầu óc vĩ đại hơn là cái khối óc(xin lỗi) đang rất nông cạn và lạc hậu của chúng ta ở cái xứ sở còn rất khiêm tốn trên bản đồ âm nhạc thế giới này.
 
Chuyện những nhạc sĩ tài hoa của phương Tây(mà không phải số đông,chỉ một số thôi) viết nhạc trên cơ sở lấy chất liệu phương đông (vậy mà có người ở Việt Nam chê các nền âm nhạc châu Á là xoàng,không đáng thâu nạp?!)để tạo nên một thứ âm nhạc mà người nghe không thể nhận ra quốc tịch của họ là chuyện xưa như trái đất và cũng không thể để biện bạch cho một người Việt Nam viết nhạc như Tây.Cái cốt tuỷ của vấn đề là Sting viết nhạc phương đông nhưng đó vẫn là nhạc của Sting chứ không phải là nhạc của tác giả nào ở phương đông!Còn ở ta thì nhạc sĩ “thâu tóm” nhạc Hoa,nhạc Tây đều có đủ cả(còn hơi bị nhiều) nhưng lại không nghe ra nhạc của Nguyễn văn X,văn Y nào cả mà lại giông giống với các tác phẩm có tên có tuổi của John X,Taylor Y nào đó!Trong khi  một vài nước châu Á khác các nhạc sĩ như:Ravi Shankar (Ấn Độ), Isang Yun( Hàn Quốc)Toru Takemitsu, Toshiro Mayuzumi(Nhật) Chou Wen-Chung(Trung Hoa)…vẫn tạo nên một cá tính sáng tạo của họ khi thủ đắc những chất liệu của âm nhạc phương Tây!

Chuyện tiết tấu bị vay mượn hay không và tại sao không gọi là “ăn cắp” như hai giai điệu giống nhau thì lại hơi bị…dở hơi.Nền lý luận nhạc học tiên tiến của thế giới đã công nhận tiết tấu giống nhau là chuyện nhỏ,vấn đề là ở chỗ giai điệu có bị”song sinh “với nhau hay không.Bởi vậy trong lịch sử âm nhạc thế giới người ta chỉ đề cập đến “sự cố”giai điệu và  chưa bao giờ chúng ta được chứng kiến chuyện hai nhạc sĩ đưa nhau ra toà vì tiết tấu giống nhau.Vậy thì tranh luận làm gì chuyện tiết tấu xưa và nay khi nó đã có kết luận?Bạn có thấy rách việc không?Sao không lên mạng tìm kiếm tài liệu và chứng cứ về chuyện đó mà đọc?

Những lý luận không chính danh,việc nọ xọ việc kia trong nhận định về âm nhạc(và tất cả mọi việc)càng làm cho mọi việc trở nên hỗn mang hơn.Chẳng hạn vấn đề biến tấu trong thể loại Variation không thể áp đặt vào ca khúc.Một đằng là hình thức âm nhạc lớn và phức tạp,một đằng là hình thức nhỏ và giản đơn hơn nhiều.Trong Variation với hàng ngàn nốt nhạc được phát triển chỉ từ một chủ đề vay mượn khoảng từ mười đến vài mươi nốt nhạc được phát triển mênh mông ra với hàng loạt thủ pháp từ nhắc lại(đơn giản,có thay đỗi) đến mô phỏng(soi gương,chia cắt,tăng,giảm)rồi triển khai rồi đối tỷ…thì chất lượng sáng tạo phải cao và nặng ký hơn nhiều so với ca khúc chỉ có khoảng  trăm nốt nhạc khi phát triển trên một chủ đề đã chiếm đến gần một chục nốt hoặc hơn.Bởi vậy,trong khí nhạc có hình thức Variation nhưng trong ca khúc thì không(nó chỉ có thủ pháp biến tấu mà thôi).Cho nên viết ca khúc mà cứ chăm bẳm đi mượn chủ đề âm nhạc của người khác để làm”variation”chứ không tự mình tạo nên chủ đề độc đáo cho mình thì rất dễ bị khả nghi về “tư cách” người viết bài hát lắm.

Điều đáng lo là gần đây, lợi dụng một vài nhận xét sai lầm về một hai bài hát”song sinh”không có căn cứ, bắt đầu xuất hiện những luận điểm bênh vực cho những giai điệu giống nhau(ít hoặc nhiều)dựa trên cơ sở “trùng hợp ngẫu nhiên” hoặc là “điều không thể tránh khỏi”-đồng thời “khai quật” những tài năng âm nhạc lớn lên ngồi cùng chiếu với những tài năng âm nhạc nhỏ chưa được lịch sử thẩm định để làm bình phong- song song với thái độ khinh thị những nhận xét còn lại về các bài hát giống nhau(cho dù đó là những thẩm định của những vị nhạc sĩ mang hàm giáo sư khả kính)trong khi vẫn sang sảng cho rằng đạo nhạc là có thật.Một chiến dịch tung hoả mù và mỵ dân chăng?

Đã là ngẫu nhiên thì sự gặp nhau chỉ xảy ra một vài lần trong các sáng tác.Nhưng có còn ngẫu nhiên chăng khi mà sự tương đồng đó diễn ra nhiều lần trong cùng một tác giả trong khi những tác giả khác không ai đào ra được(hoặc rất ít)sự “ngẫu nhiên”khác?

Và có là quá đáng không, khi một đằng thì lên án nền ca nhạc nước ta đang sản sinh ra những bài hát na ná chất liệu âm nhạc của nhau thì một đằng lại khẳng định và ủng hộ một phương pháp sáng tác theo kiểu remix những chất liệu âm nhạc có sẵn mà không dám bàn đến remix theo trình độ nào?


Và phải chăng cần phải làm một cuộc đại phẫu thuật thứ hai về nạn đạo nhạc khi mà cuộc phẫu thuật thứ nhất đã tỏ ra bị”lờn” thuốc?Hay đó chỉ là sự dãy dụa của thây ma đạo nhạc và những “đồng thanh tương ứng” của nó trong hành trình”ngưu tầm ngưu,mã tầm mã”?

T.M.P

SỰ “CHÍNH DANH” VÀ “CHẤT LƯƠNG VIỆT”


(Nhân đọc bài” Âm nhạc phải là một sản phẩm công nghệ”)

Tôi là người thích sự chính danh.Bởi vậy,tôi muốn chúng ta nên phân biệt rạch ròi các khái niệm nhà soạn nhạc,nhạc sĩ với người viết ca khúc.Bởi gộp chung tất cả lại là một thì tôi sợ các nhạc sĩ sẽ tự ái,còn các ca khúc gia lại thấy mình bị áp đặt.

“Chính danh thì ngôn thuận”.Vì vậy,tôi đã từng công khai nói lại cho rõ tôi chỉ là một người viết ca khúc (Xem bài”Người tình của ca khúc”) còn danh xưng nhạc sĩ kia là một chiếc áo quá rộng với tôi.Và trong thói quen gọi nhạc sĩ một cách bao đồng như thế,tôi nghĩ người ta chỉ ám chỉ đến khái niệm nghề nghiệp hơn là trình độ nghề nghiệp(Dĩ nhiên,một ca khúc gia giỏi vẫn hơn một nhạc sĩ tồi)

Bởi lẽ đó đối với một ca khúc gia thì việc thượng tôn giai điệu là lẽ tất nhiên.Chẳng có tính tiểu nông nào trong việc đề cao một giai điệu. Đó chỉ một quan niệm mỹ học đương nhiên:Khi khen nhạc của một bài hát hay ta vẫn thường ca tụng:”Giai điệu bài này thật đẹp”.Tôi chỉ e tính tiểu nông trong phê bình hoặc nhận định âm nhạc sẽ lôi tất cả ra vĩa hè mà nói chuyện “to mồm” và không có căn cứ khi bỏ qua lối nhận xét chính danh.



Vì sao “giai điệu là tối thượng”trong ca khúc(tạm bỏ qua ca từ)?Nói như thế không phải đứng ở góc độ một sản phẩm toàn thể đã được” đóng gói”công nghệ dưới dạng một vật chất chứa đựng âm thanh mà nhìn ở góc độ sáng tạo của một người viết bài hát để tạo nên yếu tố đầu tiên trên tinh thần”có bột mới gột nên hồ”.Có bột tốt(giai điệu) thì các các yếu tố còn lại và phát sinh sau như hoà âm,phối khí,ban nhạc,ca sĩ,chuyên viên âm thanh…sẽ là những lao động sáng tạo tiếp theo đưa bài hát đến công chúng một sản phẩm âm nhạc cuối cùng.Vì lẽ đó chẳng có yếu tố nào bị coi thường hoặc không đáng giá, nhưng cái đầu tiên và cơ bản để tạo nên bài hát bạn đang nghe là giai điệu(Vì thế bạn có thể nghêu ngao hát một giai điệu mà bạn thích mà không cần nhạc đệm,hoà âm gì cả mà vẫn cảm thấy sự rung động thẩm mỹ của giai điệu đó mang lại).Trường hợp không có giai điệu thì ca sĩ lấy gì mà hát,hoà âm dựa trên cơ sở nào mà hình thành và tất nhiên các công cụ thu âm cũng tịt ngòi luôn!Bởi vậy ca sĩ thường than không có bài hay để hát(tất nhiên,một bài hát hay nhưng không có ca sĩ hát hay thì nó chỉ là một dạng tiềm năng đang cần giọng hát để thăng hoa),nhà hoà âm-phối khí phàn nàn ít có giai điệu hay để “phối màu” cho ca khúc.(Xin nhắc lại cho chính danh là chúng ta đang bàn đến ca khúc,còn ở lĩnh vực nhạc hoà tấu, khí nhạc,opéra… thì giai điệu sẽ có một mối quan hệ và tương quan khác với các yếu tố còn lại)

“Âm nhạc là sản phẩm công nghệ”?

Chuyện đó là tất nhiên khi chúng ta đang sống trong thời đại mà mọi nền văn hoá đều chịu tác động bởi khoa hoc kỹ thuật.Tuy nhiên đứng ở quan niệm sáng tạo thì không thể chấp nhận kiểu sáng tạo theo dây chuyền công nghệ để cho ra sản phẩm hàng loạt mà “máy móc thay thế con tim,công thức thay thế cảm hứng,mô hình thay thế suy nghĩ”.Suy cho cùng tính công nghệ chỉ bao hàm tính công cụ như người viết nhạc sử dụng nhạc cụ(đàn piano,guitar…hoặc computer)để thể hiện và ghi chép lại cảm xúc,suy tư của mình.Cho nên không nên hiểu “sản phẩm công nghệ” như là một cảm thức sáng tạo nên bài hát mà chỉ nên hiểu đó là một công cụ liên kết chặt chẻ các công đoạn sáng tạo để cho ra một sản phẩm nghệ thuật cuối cùng(bài hát - hoà âm,phối khi -ban nhạc - ca sĩ - kỹ thuật âm thanh và quảng bá).



Còn tính tiểu nông?
Nếu nói đến tính tiểu nông theo quan niệm trình độ thì chắc chắn chúng ta sẽ không bàn cãi gì thêm vì mọi thứ ở Việt Nam vẫn đang ở tính tiểu nông hoặc đang chịu quán tính tiểu nông. Âm nhạc tiểu nông đã đành mà thị hiếu cũng tiểu nông, điện ảnh cũng làng xã,văn chương thiếu sinh khí,báo chí chậm tiến,phê bình-lý luận bạc nhược và cạn cợt,quản lý kinh tế yếu kém,quản lý hành chánh lạc hậu,luật pháp chồng chéo và thiếu hệ thống,Giáo dục phản khoa học…Nói chung tât cả là chậm phát triển. Đó là khi mang tất cả ra so sánh với các nước phát triển,giàu có hơn ta.Vậy thì âm nhạc trong mối tương quan giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc đó tất nhiên cũng nằm chung trong một nấc thang phát triển của “Chất lượng Việt”.Một chất lưọng đang cố và từ từ thoát ra chiếc áo tiểu nông,chậm phát triển.

Các nhạc sĩ,các ca khúc gia chân chính đang trăn trở trên tài năng chính mình(“có” hay “không có” như câu hỏi muôn thuở”tồn tại” hay “không tồn tại”) nhưng họ cũng có quyền đòi hỏi có được sự cảm thông và  cô ng bình (dĩ nhiên loại trừ phái “đạo nhạc” hoặc phái “ăn theo”)của người nghe nhạc và phê bình rằng : Hãy xem xét và đánh giá gíới viết nhạc trên tổng thể của “Chất lượng Việt”và trên sự chính danh.Vì vậy không nên lo lắng là melodist nhiều hoặc ít mà chỉ nên quan tâm giai điệu hay ít họăc nhiều,có cá tính hay vô bản sắc... Đó là bước đầu tiên để bước ra khỏi tính tiểu nông trong phê bình.

T.M.P

Một vườn hồng đơn điệu hay vườn hoa đa sắc?

Đúng là chúng ta luôn luôn lấy nhạc Tây làm chuẩn mực(Xem bài”Tại sao nhạc Tây hay”và”Bằng cách nào tôn vinh bản sắc Việt”),không phải chỉ có ở nhạc trẻ bây giờ mà nó đã đương nhiên có từ cách đây gần ¾ thế kỷ tính từ thời kỳ tân nhạc.Mà cũng chẳng riêng gì ta mà các nền nhạc trẻ châu Á khác cũng lấy nhạc học của Tây nhạc làm chuẩn mực.

Vì thế hãy bắt đầu từ cái gì gần gũi hơn và đơn giản hơn, đó là so sánh với nhạc trẻ Việt với nhạc trẻ Á châu thôi(Hãy tạm quên Âu-Mỹ đi đã).


                                                        Một nhóm GirlsBand Châu Á

Các bạn cũng như tôi không thể chối cãi rằng nhạc Hoa,Nhật ,Thái,Hàn,Indo… đã đổ bộ vào Việt Nam và được giới trẻ tiếp nhận nồng nhiệt như thế nào(Dĩ nhiên là ở các mức độ khác nhau)thậm chí còn đi vào cả sáng tác của một số người viết nhạc trẻ.Nhưng nhạc Việt có bao giờ làm được việc đó hay không-nghĩa là tìm được chỗ đứng trong trong các nước châu Á khác?Trong khi đó chúng ta cũng thừa biết những nền nhạc trẻ kể trên chưa là cái đinh gì trong mắt dân nhạc Tây!

Tôi cũng tin như đinh đóng cột rằng các bạn trẻ của các nước châu Á cũng luôn cho rằng nhạc Tây luôn hay hơn nhạc của họ nhưng họ có được một niềm tự hào là nhạc của họ vẫn có đất dụng võ ở các nước láng giềng Á châu.

Ở châu lục của chúng ta cách đây khoảng một thế kỷ chưa có khái niệm người viết nhạc hay nhà soạn nhạc bởi vì âm nhạc chỉ được truyền khẩu là chính và các hệ thống nhạc học còn khá sơ sài và ít được đặt trên một cơ sở lý luận có tính hệ thống và khoa học cao nào cả.Tuy nhiên,không phải vì thế mà nền âm nhạc Á châu không gây ảnh hưởng gì đến nền nhạc Tây. Đã từ lâu cây đàn Violon được coi là Hoàng tử của dàn nhạc cổ điển Châu Âu thật ra có quê hương từ Ả Rập, đó chính là cây đàn Rabab.Còn đất nước Mông Cổ nổi tiếng về Thành Cát Tư Hãn hơn là âm nhạc cũng được nhạc Tây ve vãn qua việc một số nhạc sĩ Mỹ học hỏi lối hát đồng song thanh để ứng dụng vào các tác phẩm của mình.Chưa hết,nhóm Beatles kỳ vĩ của nhạc Pop cũng từng se duyên với nhạc cụ Shi-ta của Ấn độ trong một số bài hát của họ.Trong khi đó ngũ cung của Nam Dương đã từng là niềm cảm hứng của Debusy để ông đẻ ra chủ nghĩa ấn tượng trong âm nhạc,và còn nhiều minh chứng nữa mà hiểu biết của tôi không nắm hết…

Cho nên cũng rất khó thuyết phục và hơi mang tính tự ti khi cho rằng một nền âm nhạc trong quá khứ không có những thành quả nào thì tương lai của nó mãi mãi cũng gần là con số không.Thử quay lại với nền nhạc Mỹ.Có thể nói nhạc trẻ Mỹ đang thống trị thế giới nhưng đất nước này trong dĩ vãng không có một phát kiến lớn nào về nhạc học như Đức tự hào về “hệ thống thang âm bình quân luật”của J.S.Bach,hoặc cây đàn guitar của niềm hãnh diện Tây Ban Nha.Một sản phẩm của Mỹ tạo nên một cuộc cách mạng trong nhạc trẻ thế giới là nhạc Rock’n’Roll cũng lấy một phần từ nhạc dân gian châu Phi là Ragtime.Và sau này cả Rap,HipHop-những sản phẩm rặt Mỹ cũng có dây mơ rễ má với âm nhạc của lục địa đen.Trong khi đó Đức chưa bao giờ là đối thủ xứng đáng của Mỹ trong nhạc trẻ,Tây Ban Nha cũng ít cống hiến cho thế giới một guitarist Pop-Rock lừng danh thiên hạ nào như Mỹ đã sản sinh ra.
Vậy thì đừng tự ti đến mức độ xấu hổ cho rằng nhạc Việt có một nền nhạc học đơn sơ và chỉ có được cây đàn bầu bé nhỏ mà lại…bất tiện để rồi nguyện làm mãi kiếp nô lệ trong âm nhạc.

Chúng ta đã nghe quá quen thuộc đến các cụm từ “nền văn hoá toàn cầu”,hoặc”đa văn hoá”, đó chính là một trong những xu hướng to lớn nhất của nhân loại đã và đang diễn ra .Tính đa văn hoá hoặc toàn cầu hoá này xuất hiện do sự giao thoa và giao lưu giữa các nền văn hoá nhưng hoàn toàn không có nghĩa cho phép một nền văn hoá này xoá sổ một nền văn hoá kia theo kiểu cá lớn nuốt cá bé mà ngược lại nó lại làm giàu có thêm cho mỗi nền văn hoá khi hoà quyện và thẩm thấu vào nhau như nền âm nhạc đương đại của Mỹ là một minh chứng.Cho nên làm gì có chuyện nhạc thuần Việt hay thuần Tàu,thuần Mỹ trong bức tranh toàn cầu hoá về văn hoá đó(chữ “thuần tuý”này nên hiểu theo nghĩa tương đối để chỉ một thứ âm nhạc của một quốc gia,một sắc tộc nào đó)nhưng cũng không thể có một nền âm nhạc của nước nhỏ này lại chấp nhận lấy một một nền âm nhạc của nước lớn khác làm nên diện mạo văn hoá của mình. Đó là một sự tự sĩ nhục.

Cái cuối cùng chính là tài năng và sức mạnh văn hoá của người nhạc sĩ sẽ quyết định.Vâng,nhạc Tây rất hay và rất tuyệt.Nhưng chúng ta phải biết tự nhủ mình rằng chính ra do tính sáng tạo và tài hoa của chúng ta còn quá kém để đánh thức,chấp cánh cho các làn điệu dân ca Việt cũng như chưa biết cách thâu tóm âm nhạc của họ để kiến tạo nên một nét âm nhạc đặc thù của chúng ta,tuy chưa hay được như Tây nhưng cũng nên hình nên vóc của một bản sắc đủ tư cách hội nhập một cách bình đẳng với”một muc tiêu gần”là âm nhạc của các nước trong khu vực châu Á.Thế thì làm một nhạc sĩ chân chính đâu phải là đơn giản như uống môt ly cà phê,nhâm nhi ly trà,và việc sản sinh ra vô khối nhạc sĩ như hiện nay sẽ chấm dứt khi người viết nhạc ý thức một cách nghiêm túc và đầy trách nhiệm về sáng tạo của mình.
Có thể ở giai đoạn, thế thế hệ này công việc kể trên là bất khả,nhưng chúng ta không được phép cho ta cái quyền phủ định bản thân và phải biết hun đúc tinh thần sáng tạo để truyền lại cho thế hệ sau và sau nữa cho đến khi việc làm đó trở nên khả thi.

Để kết thúc bài này,tôi xin kể chuyện về một vườn hoa. Ở đấy có rất nhiều loại hoa khác nhau nhưng đẹp nhất vẫn là hoa hồng được gọi là nữ hoàng của các loài hoa.Một ngày kia các loài hoa khác đều muốn mình trở thành hoa hồng vì muốn được gọi là nữ hoàng.Thế là vườn hoa trở nên một vườn hồng đơn điệu vì chỉ thuần là một loài hoa.Thương đế bèn quyết định trả mỗi loài hoa trở lại hình bóng cũ.Còn loài hoa nào yêu hoa hồng thì ngài cho chúng hôn phối với nhau để tạo nên một loại hoa khác tuy vẫn còn nét hồng hoa nhưng thực sự là một loài hoa mới.Từ đó vườn hoa trở nên tuyệt vời hơn vì tính đa sắc và đa hương của nó.

Nền âm nhạc vừa bản sắc vừa đa văn hoá của thế giới cũng tương tự như vườn hoa đó.

T.M.P
Back To Top